Categories
AGRITECH Công nghệ mới NÔNG NGHIỆP 360 Startup thế giới Tin tức sự kiện

Startup về dế Cricket One đã khép lại vòng gọi vốn Series A và mở cơ sở chế biến dế lớn nhất châu Á.

Startup về dế Cricket One của Việt Nam đã mở một cơ sở chế biến được cho là lớn nhất châu Á và đã hoàn thành vòng gọi vốn series A với mức đầu tư lên đến “7 chữ số”.

Vòng gọi vốn này được dẫn đầu bởi nhà đầu tư đến từ Singapore – Robert Alexander Stone cùng Cub Capital với một văn phòng tại Singapore.

Cơ sở mới này nằm ở Bình Phước, phía bắc Sài Gòn, ban đầu sẽ có công suất 1.000 tấn/năm và ước tính đạt đến 10.000 tấn trong vòng năm năm tới.

Trong khi các doanh nghiệp sản xuất thức ăn bằng côn trùng như Ÿnsect (Mealworm – tạm dịch: sâu meal hay sâu bột) và Innovafeed (Black soldier flies – tạm dịch: ruồi lính đen) chủ yếu tập trung vào thị trường thức ăn cho động vật, và Aspire (dế) chủ yếu nhắm vào ngành công nghiệp thức ăn cho thú cưng Bắc Mỹ, thì Cricket One đang nhắm vào thị trường thực phẩm cho con người và thú cưng bằng bột protein từ dế, thịt dế tái cấu trúc, snack dế và các loại thực phẩm bổ sung.

Mô hình kinh doanh: Chế biến tập trung và nuôi trồng phân tán

Cricket One – do anh Nam Đặng cùng chị Bicky Nguyễn thành lập vào năm 2016 và bắt đầu sản xuất thương mại vào cuối năm 2017 – đã bắt đầu bằng việc chế biến dế nuôi bởi các nông hộ địa phương trong các container vận chuyển bỏ hoang. Tuy nhiên, sau đó chúng tôi đã thay đổi một chút – Đồng sáng lập Nam Đặng nói với AgFunderNews.

Dế sẽ được nuôi tại các khu vực lân cận nhà máy và sau đó được chuyển đến nhà máy để tiến hành quá trình chế biến. Thay vì nuôi dế trong những container, chúng tôi đã thử một phương pháp mới.

“Nông dân xây dựng những chuồng trại nuôi dế dưới sự hướng dẫn và theo quy chuẩn của Cricket One. Bên cạnh đó, chúng tôi cung cấp cho họ thiết bị và kiến thức nuôi dế. Nông dân quản lý các trang trại dưới sự giám sát của chúng tôi, tuân thủ quy trình của chúng tôi, nuôi dế từ nguồn trứng và sử dụng thức ăn mà chúng tôi cung cấp. Họ sẽ bán dế cho chúng tôi, đảm bảo rằng sự hợp tác sẽ mang lại lợi ích cho cả 2 bên. Hiện nay, khoảng 45% sản phẩm của Cricket One đến từ các trang trại của những hộ nông dân này.”

Cricket One, theo Nam Đặng, cũng tự nuôi một phần của dế của riêng mình. Tuy nhiên, việc chế biến sẽ được diễn ra tập trung tại một nhà máy được chứng nhận đầy đủ.

“Mô hình nuôi trồng phân tán này cho phép chúng tôi tăng khả năng chứa gấp đôi gần như tức thì. Tuy nhiên, nhà máy chế biến sẽ trở thành điểm hạn chế do thời gian cần thiết cho việc xây dựng, mua sắm máy móc và chứng nhận”, Nam Đặng nói. “Nhưng với sự mở rộng của nhà máy hiện tại, chúng tôi có đủ không gian để mở rộng trong vài năm tới.”

Tối ưu hóa thức ăn
Vậy Cricket One cho dế của họ ăn gì?

Công thức này đang được liên tục hoàn thiện và tối ưu hóa, vì “Dế là những gì chúng ăn”, anh Nam giải thích. “Chúng tôi đã làm việc cùng với Học viện Nông nghiệp Việt Nam để nghiên cứu nhu cầu dinh dưỡng của dế và đã phát triển hơn 60 công thức thức ăn cho dế dựa trên sản phẩm phụ phổ biến [từ chất thải nông nghiệp được tái chế] như lá và cám.

“Thức ăn cho dế được sản xuất dưới dạng bột mịn và sau đó được sản xuất OEM tại một nhà máy thức ăn lớn tại Việt Nam. Chúng tôi đang xử lý hàng trăm tấn thức ăn hàng tháng.”

“Chi phí chủ yếu trong chuỗi cung ứng dế bao gồm chi phí thức ăn đứng đầu, tiếp theo là chi phí năng lượng (chủ yếu cho việc chế biến dế) và chi phí lao động. Khi tối ưu được chi phí thức ăn, chúng tôi có thể cải thiện biên lợi nhuận của mình một cách đáng kể.”

Cricket powder

Tự động hóa và quy mô
Tự động hóa và quy mô là yếu tố quan trọng để đạt được hiệu quả kinh doanh trong sản xuất thực phẩm về dế, anh Nam cho biết. “Khi áp dụng công nghệ, việc thu hoạch một thùng nuôi có diện tích 1 mét vuông giảm từ 10 phút xuống chỉ còn 20 giây.”

Nhưng điều đó không có nghĩa phải áp dụng những công nghệ tối tân, anh Nam nói. “Chúng tôi ưa chuộng những giải pháp đơn giản, chi phí thấp nhưng vẫn hiệu quả và mang lại lợi nhuận cao hơn từ đầu tư. Chúng tôi tiến hành tự động hóa việc nuôi trồng dế. Tuy nhiên, cốt lõi của toàn bộ mô hình chính là những người nông dân – công nghệ chỉ để hỗ trợ con người, làm cho công việc trở nên dễ dàng hơn và hiệu quả hơn.

“Tại trang trại của chúng tôi, việc cung cấp thức ăn và nước cho dế đã được tự động hóa. Việc thu hoạch dế, thì thường sẽ do nông dân đảm nhiệm, cũng đang trong giai đoạn được cơ giới hóa.”

Chi phí lao động: ‘Dây chuyền sản xuất 1.000 tấn mỗi năm chỉ cần 5 nhân công’
Về chi phí lao động, anh Nam nói, “Nơi chế biến dế là một hệ thống khép kín. Khi dế được thu hoạch và vận chuyển đến nhà máy, chúng sẽ trải qua quá trình liên tục từ làm sạch, khử nước, khử mỡ, nghiền và ép đùn. Dây chuyền sản xuất 1.000 tấn mỗi năm chỉ cần 5 công nhân.

“Khi hoàn thành công suất tối đa, dự kiến trong vòng 5 năm tới, chúng tôi sẽ chế biến khoảng 10.000 tấn hàng năm..”

So sánh với Aspire – đã xây dựng gần đây nhà máy chế biến dế lớn nhất thế giới tại Canada, đang hướng tới đạt 50-60% công suất vào cuối năm nay tại một nhà máy có công suất hàng năm là 12.000 tấn dế đông lạnh.

Thức ăn cho con người, thức ăn cho thú cưng, thức ăn cho động vật: Nhu cầu về sản phẩm từ dế đến từ đâu?
Khi được hỏi về nhu cầu về sản phẩm từ dế, anh Nam nói rằng Cricket One đang nhìn thấy nhu cầu từ thức ăn cho con người, thức ăn cho thú cưng và thức ăn cho động vật (chủ yếu là thủy sản), và hiện nay đã và đang hợp tác với 15 nhà phân phối trên toàn cầu tại 20 thị trường.

“Ở EU, Cricket One hiện là nhà sản xuất duy nhất ngoài khu vực được ủy quyền để bán bột protein từ dế,” anh Nam nhấn mạnh. “Chúng tôi nhận thấy sự phát triển đáng kể trong tất cả ba lĩnh vực thị trường, đặc biệt là từ phía các tập đoàn lớn.”

Ngành công nghiệp thực phẩm từ côn trùng cho con người đang thu hút sự chú ý đặc biệt tại Việt Nam, Thái Lan và Campuchia, nơi “hơn 70% dân số chấp nhận cho việc tiêu thụ dế”, anh Nam nói. “Tuy nhiên, châu Á đang bị chậm lại so với châu u về đổi mới sản phẩm. Hầu hết các thực phẩm côn trùng tiêu thụ ở châu Á đang ở dạng nguyên con.”

Tuy nhiên, bột từ dế hiện đang được ứng dụng thành dạng snack thị trường châu Á, anh ta nói. “Mục tiêu chính là thay thế một phần của tôm bằng dế trong các sản phẩm Snack với sự tiết kiệm và bền vững, đồng thời cung cấp cùng một lượng dinh dưỡng.”

Cũng có rào cản văn hóa đối với việc tiêu thụ thực phẩm côn trùng ở châu u vì họ không truyền thống ăn côn trùng, anh Nam nói. “Tuy nhiên, châu u có một mức độ đổi mới sản phẩm đáng kinh ngạc, đa dạng sản phẩm và giáo dục thị trường. Nhiều Startup, doanh nghiệp vừa và nhỏ đang dẫn đầu thị trường và thậm chí, các nhà bán lẻ lớn ở Đức, Pháp, Ý và Cộng hòa Séc cũng rất muốn sẽ sớm được cung cấp các sản phẩm dựa trên côn trùng.”

‘Tiếp tục bán bột từ dế không thể kích thích sự tăng trưởng’
Tuy nhiên, anh Nam lập luận rằng “Sự tăng trưởng tỷ lệ thuận trực tiếp với đổi mới sản phẩm và nỗ lực giáo dục thị trường”.

“Chỉ việc bán bột từ dế sẽ không thể kích thích sự tăng trưởng. Các nhà sản xuất như chúng tôi đang mở rộng bằng cách cung cấp các loại Snack từ dế như thương hiệu Rec Rec của chúng tôi ở Việt Nam. Ngoài ra, chúng tôi cung cấp các sản phẩm như bánh tráng, các loại Snack để tối ưu việc ra mắt sản phẩm các sản phẩm tiện lợi và dễ dàng cho khách hàng sử dụng hơn.”

Khi nói về thức ăn cho thú cưng và động vật, anh Nam nói, “Hai phân khúc này có triển vọng và tỷ lệ tiêu thụ cao. Tuy nhiên, họ đòi hỏi những phương pháp khoa học cần nghiên cứu sâu hơn cùng nhiều khía cạnh khác, trong khi giá cả phải hợp lý. Phân khúc này chỉ khả thi cho các công ty có khả năng tối ưu hóa chi phí của họ.”

Snack: Rec Rec
Rec Rec – sản phẩm snack đầu tiên của Cricket One – đã ra mắt vào tháng 2, anh Nam cho biết. “Các sản phẩm đầu tiên dưới nhãn hiệu Rec Rec là dế nguyên con được trộn với gia vị, có sẵn tại gần 200 cửa hàng bán lẻ và được xếp vào danh sách các loại snack được yêu thích trên các nền tảng thương mại điện tử như Shopee, Lazada và Tiki. Rec Rec cũng được bán kèm bởi các thương hiệu bia hàng đầu và chúng tôi đang mang đến 15.000 sản phẩm này cho người tiêu dùng mỗi tháng.

“Snack dế, có cả phiên bản Ready to Cook và Ready to Eat, sẽ ra mắt vào tháng 10. Với sản phẩm này, chúng tôi đang thách thức thị trường Snack chiếm 200 triệu đô la ở Việt Nam.”

Theo AgFunderNews

 

Categories
Giá cả thị trường Hạt ( tiêu, điều, mắc ca ... ) NÔNG NGHIỆP 360 XUẤT NHẬP KHẨU

Trong tháng 8/2023, ngành xuất khẩu hạt điều của Việt Nam đã chính thức thiết lập một kỷ lục mới với số lượng xuất khẩu cao kỷ lục

Theo thông tin từ Cục Xuất nhập khẩu thuộc Bộ Công Thương, số liệu thống kê từ Tổng cục Hải quan cho biết rằng vào tháng 8/2023, ngành xuất khẩu hạt điều của Việt Nam đã tiếp tục thiết lập một mức kỷ lục mới.

Tổng lượng xuất khẩu hạt điều trong tháng này đạt 60,58 nghìn tấn, với tổng trị giá lên đến 333,83 triệu USD. Đây là một thành tựu đáng kể, khi lượng xuất khẩu tăng 10,8% và giá trị tăng 9,7% so với tháng trước, và tăng lần lượt 29,2% về lượng và 21,8% về trị giá so với cùng kỳ năm trước (tháng 8/2022).

Trong 8 tháng đầu năm 2023, xuất khẩu hạt điều của Việt Nam đã đạt gần 395,6 nghìn tấn, với giá trị lên đến 2,28 tỷ USD. Đây là sự tăng 15,5% về lượng và 11,3% về giá trị so với cùng kỳ năm trước. 

Tính chung 8 tháng đầu năm 2023, ngành xuất khẩu hạt điều của Việt Nam đã ghi nhận những con số ấn tượng. Tổng lượng xuất khẩu hạt điều trong khoảng thời gian này đạt gần 395,6 nghìn tấn và tổng giá trị đạt khoảng 2,28 tỷ USD. Điều đáng chú ý, lượng xuất khẩu tăng 15,5% và giá trị tăng 11,3% so với cùng kỳ năm trước.

 

Bieu đo the hien dien bien gia xuat khau binh quan hat dieu cua Viet Nam qua cac thang trong giai doan 2021-2023 (DVT: USD/tan).
Biểu đồ thể hiện diễn biến giá xuất khẩu bình quân hạt điều của Việt Nam qua các tháng trong giai đoạn 2021-2023 (ĐVT: USD/tấn).

Trong tháng 8/2023, giá xuất khẩu trung bình của hạt điều Việt Nam đã đạt mức 5.510 USD/tấn, có một sự giảm nhẹ 1% so với tháng 7/2023 và giảm 5,7% so với tháng 8/2022. Tính tổng quan trong 8 tháng đầu năm 2023, giá xuất khẩu trung bình của hạt điều Việt Nam đạt mức 5.760 USD/tấn, giảm 3,6% so với cùng kỳ năm 2022.

Ngoài ra, tháng 8/2023 cũng chứng kiến sự gia tăng trong xuất khẩu hạt điều đến nhiều thị trường quan trọng và có tiềm năng, điểm đáng chú ý là xuất khẩu hạt điều đến thị trường Các Tiểu vương quốc Ả rập Thống nhất và Ả rập Xê út đã tăng trưởng đến mức có hai chữ số. Điều này thể hiện sự đa dạng hóa và mở rộng của thị trường xuất khẩu hạt điều của Việt Nam.

Hinh anh bieu do the hien 10 thi truong xuat khau hat dieu lon nhat cua Viet Nam trong thang 8 va 8 thang dau nam 2023 (Nguon: Tinh toan tu so lieu cua Tong cuc Hai quan).
Hình ảnh biểu đồ thể hiện 10 thị trường xuất khẩu hạt điều lớn nhất của Việt Nam trong tháng 8 và 8 tháng đầu năm 2023 (Nguồn: Tính toán từ số liệu của Tổng cục Hải quan).

Tính tổng cộng 8 tháng đầu năm 2023, ngành xuất khẩu hạt điều của Việt Nam đã ghi nhận sự tăng trưởng tích cực trên các thị trường chủ lực. Đặc biệt, xuất khẩu hạt điều sang các thị trường như Trung Quốc, Đức, Anh, Các Tiểu vương quốc Ả rập Thống nhất và Ả rập Xê út đã đạt con số cao so với cùng kỳ năm ngoái. Điều này là một tin vui cho ngành xuất khẩu hạt điều của Việt Nam và thể hiện sự đa dạng hóa và mở rộng thị trường.

Tuy nhiên, ngành này vẫn đối diện với nhiều khó khăn. Đặc biệt, các nhà máy sản xuất hạt điều vẫn phải lệ thuộc từ 50 đến 60% vào nguyên liệu nhập khẩu. Để cải thiện tình hình này, việc cải tạo và nâng cao sản lượng và chất lượng của cây điều Việt Nam là một trong những khâu then chốt. Năm nay, ngành điều đã đặt mục tiêu xuất khẩu hơn 3,1 tỷ USD và để đạt được mục tiêu này, việc cải thiện sản xuất hạt điều trong nước sẽ đóng một vai trò quan trọng.

Nguồn: Vinacas 

Categories
Giá cả thị trường Giá cả thị trường NÔNG NGHIỆP 360 Nông sản chế biến TIN NÔNG NGHIỆP Tin tức Xuất nhập khẩu XUẤT NHẬP KHẨU

Nông nghiệp vẫn là nồng cốt chóng đỡ nền kinh tế.

(02/09/2023) Trong 8 tháng gần đây, nông nghiệp đã thể hiện sự mạnh mẽ của mình trong bối cảnh khó khăn về thị trường và biến đổi khí hậu, với sự hỗ trợ của doanh nghiệp và cộng đồng nông dân trên khắp cả nước.

Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT), ngành này đã ghi nhận một thặng dư trong cán cân thương mại lên đến hơn 6,7 tỷ USD, tăng 6,4% so với cùng kỳ năm trước. Nông nghiệp vẫn duy trì vai trò quan trọng trong nền kinh tế, đồng thời đảm bảo an ninh lương thực và tăng cường xuất khẩu.

Cụ thể, vùng ĐBSCL đã nhanh chóng mở rộng diện tích canh tác lúa Thu Đông lên 700.000 ha để đáp ứng nhu cầu xuất khẩu. Sự tăng giá lúa đã mang lại động lực cho các nông dân để tập trung vào chất lượng sản phẩm.

Nganh nong nghiep tiep tuc dong vai tro quan trong lam tru do cho nen kinh te, dong thoi dam bao dong thoi hai muc tieu chinh: an ninh luong thuc va xuat khau.
Ngành nông nghiệp tiếp tục đóng vai trò quan trọng làm trụ đỡ cho nền kinh tế, đồng thời đảm bảo đồng thời hai mục tiêu chính: an ninh lương thực và xuất khẩu.

Sự ổn định trong nước đã làm cho việc tăng cường xuất khẩu trở nên hiệu quả hơn. Trong 8 tháng qua, kim ngạch xuất khẩu nông, lâm và thủy sản đã vượt qua con số 33 tỷ USD. Các mặt hàng như rau quả, lúa gạo, hạt điều và sản phẩm chăn nuôi đã thể hiện sự phát triển mạnh mẽ.

Đáng chú ý, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam đã tiếp tục tăng lên mức cao nhất thế giới, đạt khoảng 628 – 643 USD/tấn, trong khi sầu riêng Việt Nam là mặt hàng độc quyền. Điều này sẽ tạo ra đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế.

Trong bối cảnh xung đột chính trị và biến đổi khí hậu toàn cầu, ít quốc gia có khả năng cung ứng đủ lương thực cho nhu cầu nội địa và xuất khẩu như Việt Nam. Do đó, ngoài lợi ích quốc gia, Việt Nam còn đảm nhận trách nhiệm xã hội bằng việc chia sẻ lương thực với các quốc gia khác, trong bối cảnh có hơn 700 triệu người đang phải đối mặt với nạn đói do biến đổi khí hậu.

Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu nông, lâm và thủy sản trong tám tháng đầu năm 2023 được ước tính đạt 59,69 tỷ USD, với kim ngạch xuất khẩu 33,21 tỷ USD và nhập khẩu 26,48 tỷ USD, tạo ra thặng dư 6,72 tỷ USD.

Về xuất khẩu, trong tháng 8 kim ngạch xuất khẩu dự kiến đạt 4,36 tỷ USD, giảm 6,5% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, xuất khẩu nông sản tăng 11,5%( 2,16 tỷ USD), chăn nuôi tăng 24% ( 50 triệu USD), trong khi xuất khẩu thủy sản giảm 24% (750 triệu USD) và lâm sản giảm 21,5% ( 1,19 tỷ USD). Đầu vào sản xuất tăng 13,3% ( 207 triệu USD).

Trong tám tháng đầu năm, mặc dù một số mặt hàng xuất khẩu chính giảm giá trị so với cùng kỳ năm trước, tổng kim ngạch xuất khẩu trong dự tính 33,21 tỷ USD, giảm đi 9,5%. Cụ thể, xuất khẩu thuỷ sản giảm 25,4% (5,68 tỷ USD), lâm sản giảm 25,1% (8,95 tỷ USD), và đầu vào sản xuất giảm 21,9% (1,32 tỷ USD). Tuy nhiên, một số mặt hàng như nông sản đã tăng giá trị xuất khẩu lên 16,9 tỷ USD, tăng 11,5%, trong đó nổi bật là mặt hàng rau quả với 3,45 tỷ USD, tăng 57,5%, gạo với 3,17 tỷ USD, tăng 36,1%, hạt điều với 2,23 tỷ USD, tăng 8,9%, và cà phê với 2,94 tỷ USD, tăng 2,3%. Sản phẩm chăn nuôi cũng tăng 26,1% lên 325 triệu USD.

Nguồn: Vinacas

Categories
Báo cáo chính sách NÔNG NGHIỆP 360 Nông sản chế biến Thủy hải sản TIN NÔNG NGHIỆP Tin tức Tin tức sự kiện Xuất nhập khẩu XUẤT NHẬP KHẨU

EU Công Bố Quy Định Mới về Dư Lượng Hóa Chất trong Nông Sản và Thực Phẩm

(11/3/2023) EU vừa công bố một loạt quy định mới về dư lượng hóa chất trong nông sản và thực phẩm.

Chủ yếu là các quy định tập trung vào một loạt sản phẩm nông sản và thực phẩm đa dạng, bao gồm rau, củ, quả tươi và đông lạnh,…. Ngoài ra, các sản phẩm thuộc nhóm hạt điều, cà phê, chè, sản phẩm gia vị, ngũ cốc, hạt có dầu, sản phẩm từ động vật trên cạn như thịt, trứng, sữa và mật ong cũng nằm trong phạm vi của các quy định này. Điều này tạo ra một bộ khung chung để kiểm soát dư lượng hóa chất trong các sản phẩm này, nhằm đảm bảo an toàn thực phẩm và sức khỏe của người tiêu dùng.

EU đã thiết lập các mức giới hạn dư lượng (MRL) cho các hoạt chất khác nhau trên các loại sản phẩm khác nhau, bắt đầu từ 0,01 mg/kg. Tuy nhiên, EU cũng đã đưa ra các MRL tùy chỉnh cho một số hoạt chất ở mức 0,05 mg/kg, 0,07 mg/kg và thậm chí 1,5 mg/kg trên một số nhóm sản phẩm như rau, củ, rau gia vị, thịt và các sản phẩm từ nội tạng động vật. Năm 2023, EU đã tập trung vào việc sửa đổi nhiều quy định MRL trong Quy định (EC) số 396/2005. Những thay đổi này sẽ có hiệu lực từ ngày 26/9/2023.

Đồng thời, Ủy ban châu Âu đã ban hành các quy định mới liên quan đến MRL tối đa cho arsenic (Asen) trong một số loại thực phẩm như gạo, các sản phẩm chế biến từ gạo, thực phẩm dinh dưỡng cho trẻ em, nước hoa quả, sản phẩm hoa quả cô đặc và muối. Mức MRL cho Asen dao động từ 0,01 đến 0,15 mg/kg trên các sản phẩm này. Quy định này áp dụng trực tiếp cho tất cả các quốc gia thành viên của EU và có hiệu lực từ ngày 26/3/2023.

Muc dư luong toi da (MRL) đoi voi hoat chat isoxaben, novaluron va tetraconazole
Mức dư lượng tối đa (MRL) đối với hoạt chất isoxaben, novaluron và tetraconazole

Trước đó, Ủy ban châu u đã ban hành Quy định 2023/174 để sửa đổi Quy định 2019/1793 về việc thực hiện tạm thời các biện pháp kiểm soát chính thức và khẩn cấp đối với một số hàng hóa được nhập khẩu vào EU.

Cụ thể, quy định này đã sửa đổi một số mặt hàng từ Việt Nam như sau: mì ăn liền chứa gia vị, bột nêm hoặc nước sốt và quả thanh long sẽ có tần suất kiểm tra thuốc bảo vệ thực vật là 20%. Đậu bắp và ớt chuông thuộc giống capsicum vẫn duy trì tần suất kiểm tra là 50%. Điểm mới trong qui định này là đậu bắp sản xuất tại Việt Nam phải có chứng thư kiểm soát thuốc bảo vệ thực vật do phía Việt Nam cấp. Tuy nhiên, quy định mới cũng gỡ bỏ kiểm soát đối với 4 sản phẩm của Việt Nam là mùi tây, rau mùi, húng quế và bạc hà, không còn bị kiểm soát ở mức 50% khi xuất khẩu vào thị trường EU như trước đây.

Đáng lưu ý, theo Thạc sĩ Nguyễn Thị Hoàng Thúy, Tham tán thương mại Việt Nam tại Thụy Điển, Nghị viện châu Âu và Hội đồng châu Âu họp định kỳ 6 tháng một lần để xem xét và đánh giá mức độ vi phạm về an toàn thực phẩm và thức ăn chăn nuôi của các quốc gia xuất khẩu vào EU. Sau đó, Ủy ban châu Âu sẽ thông báo về những thay đổi trong quy định về các biện pháp kiểm soát. Có các sản phẩm sẽ được tăng cường kiểm soát và có sản phẩm được loại bỏ khỏi danh sách kiểm soát.

Vì vậy, các doanh nghiệp xuất khẩu sang EU cần tuân thủ các ngưỡng kiểm soát để tránh vi phạm. Sự vi phạm của chỉ một vài doanh nghiệp có thể ảnh hưởng đến toàn bộ ngành và gây ảnh hưởng đến các doanh nghiệp khác.

Ngoài ra, Ủy ban châu Âu đã ban hành Quy định 2022/741 về kiểm soát mức dư lượng thuốc bảo vệ thực vật tối đa và đánh giá mức độ tiếp xúc của người tiêu dùng với dư lượng thuốc trừ sâu trên và trong thực phẩm có nguồn gốc động vật. Các quốc gia thành viên sẽ thu thập và phân tích mẫu cho các tổ hợp thuốc trừ sâu được đề cập trong quy định. Các sản phẩm từ nguồn thực vật và động vật, chẳng hạn như cam, táo, chuối, kiwi, bưởi, hành tây, cà rốt, bông cải xanh, cải bắp, đậu, ớt, gạo ngoại vỏ, mỡ gia cầm, sữa bò, và trứng gà, sẽ được lấy mẫu ngẫu nhiên để kiểm tra. Ngoài việc kiểm tra tại cửa khẩu, các sản phẩm này sẽ được kiểm tra ngay cả khi đã đến các siêu thị. Nếu có bất kỳ dấu hiệu vi phạm nào, cơ quan thích hợp sẽ tiếp tục kiểm tra tại các kho hàng nhập khẩu. Bà Thúy đã nêu rõ, “Sản phẩm vi phạm sẽ bị thu hồi và thông tin về vi phạm sẽ được đăng rộng trên các phương tiện truyền thông. Điều này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hình ảnh sản phẩm của Việt Nam tại các thị trường khó tính này, trong bối cảnh xây dựng hình ảnh tại những thị trường này đã rất khó khăn.”

Nguồn:Vinacas

Categories
Báo cáo chính sách Giá cả thị trường Giá cả thị trường NÔNG NGHIỆP 360 Nông sản chế biến TIN NÔNG NGHIỆP Tin tức Xuất nhập khẩu XUẤT NHẬP KHẨU

Giá Gạo Tăng 10% Sau Lệnh Cấm Xuất Khẩu Của Ấn Độ theo FAO

Theo Tổ chức Nông Lương Liên Hợp Quốc (FAO), chỉ số giá hàng hóa lương thực thực phẩm đã bắt đầu giảm trong tháng 8, đặc biệt đối với các mặt hàng quan trọng như gạo và đường.

gao vn

Chỉ số giá lương thực FAO trong tháng 8 đạt trung bình 121,4 điểm, giảm 2,1% so với tháng 7 và thấp hơn đến 24% so với mức đỉnh của nó vào tháng 3/2022.

Dầu thực vật sau khi tăng mạnh vào tháng 7 với 12,1% thì tháng 8 lại có sự đối ngược với mức tăng trưởng đó là giảm đi 3,1%. Giá dầu hướng dương giảm gần 8% do nhu cầu nhập khẩu trên toàn cầu giảm sút và có nguồn cung dồi dào từ các nhà xuất khẩu lớn. Giá dầu đậu nành giảm do cải thện điều kiện trồng đậu tương tại Mỹ, trong khi giá dầu cọ giảm nhẹ do sản lượng tăng theo mùa ở các quốc gia sản xuất hàng đầu ở Đông Nam Á.

Giá ngũ cốc giảm nhẹ 0,7% so với tháng 7. Giá lúa mì giảm 3,8% do nguồn cung dồi dào từ một số nhà xuất khẩu hàng đầu và giá ngũ cốc thô giảm 3,4% do nguồn cung ngô trên toàn cầu dồi dào do thu hoạch kỷ lục tại Brazil và sự chuẩn bị cho mùa thu hoạch ở Mỹ.

Trái lại, Chỉ số giá gạo đã tăng 9,8% so với tháng 7, đạt mức cao nhất trong 15 năm sau khi Ấn Độ, là quốc gia xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới, áp đặt lệnh cấm xuất khẩu loại gạo Indica. Sự không chắc chắn về thời hạn của lệnh cấm và những lo ngại về hạn chế xuất khẩu đã khiến các tham gia trong chuỗi cung ứng phải giữ lại hàng hóa, thảo luận lại hợp đồng hoặc tạm dừng việc chào bán, đặc biệt đối với giao dịch với lượng hàng nhỏ và các hợp đồng đã ký trước đó.

Chỉ số giá sữa giảm 4,0% so với tháng 7, chủ yếu là do giá sữa bột nguyên kem giảm với nguồn cung dồi dào từ Châu Đại Dương. Giá bơ và phô mai cũng giảm, một phần do hoạt động giao dịch thụ động trong mùa nghỉ hè ở châu Âu.

Chỉ số giá thịt giảm 3,0%, trong đó giá thịt cừu giảm mạnh nhất, chủ yếu là do tăng nguồn cung xuất khẩu từ Australia và nhu cầu từ Trung Quốc giảm yếu. Nguồn cung dồi dào cũng khiến giá thịt lợn, thịt gia cầm và thịt bò giảm.

Chỉ số giá đường của FAO tăng 1,3% so với tháng 7 và trong tháng 8 đã cao hơn 34,1% so với cùng kỳ năm trước. Sự tăng này chủ yếu được gây ra bởi lo ngại ngày càng gia tăng về tác động của hiện tượng El Niño đối với cây mía, tháng 8 ở Thái Lan có ít mưa hơn bình thường và tình hình khô hạn sẽ kéo dài.Việc thu hoạch mía lớn ở Brazil đang diễn ra đã hạn chế áp lực tăng giá đường toàn cầu, cũng như giá ethanol thấp hơn và sự suy yếu của đồng tiền Brazil (Đồng Real).

Nguồn: CTTDT – BNNPTNT

Categories
Giá cả thị trường Hạt ( tiêu, điều, mắc ca ... ) TIN NÔNG NGHIỆP Tin tức Xuất nhập khẩu XUẤT NHẬP KHẨU

Việt Nam Vẫn Là Ngôi Sao Trong Ngành Xuất Khẩu Hạt Điều

(19/9/2023) Việt Nam tiếp tục thể hiện sức mạnh của mình trong ngành xuất khẩu hạt điều khi các quốc gia đang đổ về để nhập khẩu sản phẩm này từ Việt Nam. Đặc biệt, Trung Quốc đã đầu tư một số lượng tiền khổng lồ để mua hạt điều từ đất nước chúng ta trong suốt 8 tháng vừa qua.

dieu VN

Tháng 8 năm 2023, ngành xuất khẩu hạt điều của Việt Nam tiếp tục ghi nhận mức cao kỷ lục mới với 60,58 nghìn tấn, mang về tổng cộng 333,8 triệu USD. Đây là một tín hiệu tích cực khi lượng xuất khẩu tăng 10,8% so với tháng trước và giá trị tăng 9,7%. 

So với cùng kỳ năm ngoái, tháng 8 năm nay chứng kiến một bước tiến mạnh mẽ với tăng trưởng 29,2% về khối lượng và 21,8% về giá trị xuất khẩu. 

Kết quả tính đến tháng 8 năm nay cho thấy nước ta đã xuất khẩu gần 395,6 nghìn tấn hạt điều, đạt giá trị 2,28 tỷ USD, tăng lần lượt 15,5% và 11,3% so với cùng kỳ năm trước. 

Nên nhớ rằng, hạt điều đã trở thành ngành hàng thứ ba ghi nhận mức tăng trưởng cao trong 8 tháng đầu năm 2023 trong “câu lạc bộ xuất khẩu tỷ USD” của ngành nông nghiệp, chỉ sau rau quả và gạo.

Mặc dù vẫn có sự gia tăng đáng kể về khối lượng và giá trị, giá xuất khẩu bình quân hạt điều của Việt Nam trong 8 tháng năm 2023 vẫn đạt 5.760 USD/tấn, giảm 3,6% so với cùng kỳ năm 2022.

Đáng chú ý, ngành điều vẫn đối mặt với tình trạng nhập siêu với tổng giá trị nhập khẩu đạt xấp xỉ 2,46 tỷ USD tính đến hết tháng 8 năm nay, tăng 12,4% so với cùng kỳ năm trước.

Trong việc xuất khẩu hạt điều, MỹTrung Quốc vẫn duy trì vị thế là những thị trường lớn nhất. Hai thị trường này hiện chiếm 41,8% tổng kim ngạch xuất khẩu hạt điều của Việt Nam trong 8 tháng năm nay.

Trong tháng 8, cả Mỹ và Trung Quốc đã mua mặt hàng hạt điều với số tiền lớn, dẫn đến tăng trưởng giá trị xuất khẩu lần lượt là 33,8% và 37,3% so với tháng 8 năm trước.

Ngoài ra, xuất khẩu hạt điều sang thị trường Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất cũng ghi nhận mức tăng mạnh với 148,7% so với tháng 8 năm ngoái. Các thị trường khác cũng ghi nhận sự tăng trưởng đáng kể.

Tính tổng 8 tháng năm 2023, trừ Úc và Tây Ban Nha, xuất khẩu hạt điều sang tất cả các thị trường chủ lực đều tăng. Trong đó, xuất khẩu hạt điều sang thị trường Trung Quốc đã đạt gần 361 triệu USD, tăng 33,9% so với cùng kỳ năm trước.

Xuất khẩu hạt điều sang Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất và Ả Rập Xê út cũng đạt mức tăng mạnh lần lượt là 46,6% và 40,1% so với cùng kỳ năm trước.

Chuyên gia trong ngành dự đoán rằng từ quý III / 2023 trở đi, xuất khẩu hạt điều của Việt Nam sẽ tăng lên do yếu tố chu kỳ và nhu cầu nhập khẩu từ Mỹ và EU đang trở lại.

Hiện tại, các nhà máy sản xuất trong nước đã ký được nhiều đơn hàng mới và nhu cầu tiêu thụ sản phẩm này đang tăng. Do đó, hoạt động sản xuất đang diễn ra sôi động, nhiều đơn vị đã phải tăng công suất chế biến để đáp ứng các đơn hàng đã ký cho hai quý cuối năm.

Để tiếp tục phát triển và bứt phá, việc nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hóa sản phẩm và tận dụng cơ hội từ thị trường là điều cần thiết.

Theo kế hoạch mới nhất của Hiệp hội Điều Việt Nam (Vinacas), nếu giá điều thô tiếp tục ổn định và có xu hướng giảm tiếp trong thời gian tới, tổng kim ngạch xuất khẩu hạt điều của Việt Nam trong năm 2023 dự kiến sẽ đạt khoảng 3,05 tỷ USD, giảm 50 triệu USD so với kế hoạch ban đầu.

Nguồn: Vinacas

Categories
CÂU CHUYỆN VÀ NHÂN VẬT Nhân vật cảm hứng

Sáng tạo góp phần nâng cao giá trị ngành điều của ông Hoàng Kim Tiến

Sự phát triển của ngành chế biến hạt điều và việc ép dầu từ vỏ hạt điều tại Bình Phước đã thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp cơ khí phụ trợ, góp phần giải quyết các khó khăn trong quá trình chế biến hạt điều.

Máy móc được cải tiến

Nhằm tối ưu hóa quá trình sản xuất và cải thiện chất lượng sản phẩm, Công ty TNHH MTV sản xuất thương mại xuất, nhập khẩu Đại Hoàng Kim, đặt tại thôn 8, xã Long Hưng, huyện Phú Riềng, đã tiến hành nghiên cứu và thành công trong việc chế tạo “Hệ thống thiết bị tách vỏ cứng hạt điều.”

may moc

Ông Hoàng Kim Tiến, Giám đốc công ty đã tự mày mò nghiên cứu và phát triển máy chẻ và máy cắt hạt điều bắt đầu từ năm 2010. Sau ba năm nỗ lực, vào năm 2013, ông đã chế tạo thành công chiếc máy đầu tiên trong hàng loạt những sáng chế khác. Với công suất từ 1 đến 1,2 tấn nguyên liệu được chế biến mỗi giờ, hệ thống thiết bị tách vỏ cứng hạt điều của công ty đã giúp tiết kiệm tới 100 lực lượng lao động và giảm chi phí sản xuất chỉ còn 1/10 so với việc thủ công trước đây. Đáng chú ý, máy móc này sau đó đã được bán cho nhiều công ty chế biến hạt điều trong và ngoài tỉnh.

Với sự không ngừng cải tiến và tập trung vào việc nâng cao chất lượng thiết bị máy móc, Công ty TNHH MTV thương mại dịch vụ xuất nhập khẩu cơ khí Gia Bảo, đặt tại khu phố 1, phường Long Phước, thị xã Phước Long, đã thành công trong việc nghiên cứu và chế tạo máy cắt tách vỏ cứng hạt điều tự động vào năm 2018.

Theo ông Nguyễn Văn Liền, Giám đốc công ty chia sẽ máy cắt tách vỏ cứng hạt điều tự động được thiết kế không sử dụng sên xích, giúp tăng độ bền và có thể hoạt động 5-10 năm mới cần thay thế một lần. Đây là một sáng chế độc quyền và được cấp bằng sáng chế vào năm 2022. Nhiều công ty đã quyết định mua máy này để sử dụng trong quá trình sản xuất.

công nghệ ép dầu điều được ĐƯA về Bình Phước

Cùng với việc phát triển công nghệ chế biến hạt điều, Công ty TNHH sản xuất Vạn Đức từ TP. Hồ Chí Minh đã mở một chi nhánh cơ khí chuyên sản xuất và lắp ráp máy ép dầu từ vỏ hạt điều tại phường Long Phước, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong việc mua bán, sửa chữa và bảo dưỡng máy.

Theo ông Hà Hùng Hào, Giám đốc Công ty TNHH sản xuất Vạn Đức, công nghệ máy ép dầu từ vỏ hạt điều đã có từ lâu, khoảng 20 năm trước. Chiếc máy ép đầu tiên được cải tiến từ máy ép dầu dừa của Pháp. Sau đó, ông và một số thợ cơ khí đã tiến hành tìm tòi, nghiên cứu và chế tạo máy ép dầu từ vỏ hạt điều bằng việc kết hợp các tính năng của máy ép dầu dừa và ép vỏ hạt điều. Ông đã mở một công ty riêng và bắt đầu sản xuất đại trà, cung cấp máy cho nhiều công ty trong nước. Năm 2019, ông mở thêm một chi nhánh cơ khí chuyên sản xuất và lắp ráp máy ép dầu từ vỏ hạt điều tại phường Long Phước. Tại đây, hàng năm, công ty sản xuất hơn 40 máy, chủ yếu cung cấp cho thị trường Bình Phước, với mức giá dao động từ 220-230 triệu đồng mỗi máy.

Ông Hào tiết lộ rằng, máy ép dầu từ vỏ hạt điều của Công ty TNHH sản xuất Vạn Đức đã chiếm lĩnh khoảng 60% thị trường tại Bình Phước. Điều này không chỉ đến từ việc sản xuất và cung cấp sản phẩm, mà còn xuất phát từ sự quan tâm đặc biệt đến dịch vụ chăm sóc khách hàng. Công ty thường xuyên kiểm tra, bảo trì, và bảo dưỡng các thiết bị và máy móc, giúp các công ty sử dụng máy móc một cách hiệu quả hơn. Vào ông cũng cam kết rằng ông ty trong việc giải quyết các vấn đề kỹ thuật của khách hàng một cách nhanh chóng và hiệu quả, đồng thời thể hiện sự quan tâm và hỗ trợ đối với khách hàng của họ.

Để hoàn thiện một chiếc máy ép dầu từ vỏ hạt điều, các thợ cơ khí phải thực hiện nhiều công đoạn khác nhau, từ việc chọn lựa vật liệu sắt thép, đúc phôi, gia công… Mỗi bước đều quan trọng và đòi hỏi sự chính xác và tỉ mỉ. Điều này làm cho máy có thể vận hành liên tục và tự động từ khi cấp liệu đến khi sản xuất ra thành phẩm. Điểm mạnh của máy nằm ở cấu trúc đơn giản, dễ vận hành và bảo trì. Ông Hào nói thêm: “Trong quá trình sản xuất máy, công đoạn đúc phôi và gia công là những công việc khó nhất và nếu có sai sót nào đó, chúng tôi phải loại bỏ. Chúng tôi mong muốn có thể cải thiện công nghệ sản xuất máy bằng việc áp dụng công nghệ CNC, giúp đạt được độ chính xác tốt hơn và Để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của khách hàng.”

Máy ép dầu từ vỏ hạt điều của Công ty TNHH sản xuất Vạn Đức không chỉ phục vụ thị trường trong nước mà còn xuất khẩu ra thị trường quốc tế. Trung bình mỗi năm, công ty xuất khẩu khoảng 20 máy sang các nước châu Phi. Trong thị trường Bình Phước, có tới 60% máy ép dầu điều của các công ty đều được mua từ Công ty Vạn Đức.

Máy ép dầu từ vỏ hạt điều đã được các công ty sản xuất để chế biến dầu điều hàng loạt. Hiện có ba quốc gia nổi tiếng trên thế giới sản xuất dầu từ vỏ hạt điều, đem lại lợi ích kinh tế ổn định và cao cấp cho họ, đó là Việt Nam, Ấn Độ và Brazil. Sự phát triển của công nghệ ép dầu từ vỏ hạt điều đã thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp cơ khí phụ trợ. Điều này cũng đã giúp giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường do vỏ hạt điều gây ra và đồng thời gia tăng giá trị trong ngành sản xuất và chế biến điều tại địa phương.

Nhờ việc áp dụng khoa học và công nghệ, sự cơ giới hóa và tự động hóa, các khía cạnh khó khăn trong quá trình chế biến hạt điều như vấn đề môi trường, tình trạng thiếu lao động, kiểm soát chất lượng sản phẩm, và bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm đã được giải quyết. Điều này không chỉ là kết quả của sự sáng tạo của người dân và các nhà khoa học, mà còn đã mang lại nguồn lợi kinh tế đáng kể cho cả người dân và doanh nghiệp trong tỉnh.

Nguồn: VINACAS

Categories
Giá cả thị trường NÔNG NGHIỆP 360 TIN NÔNG NGHIỆP Tin tức Tin tức sự kiện Trái cây XUẤT NHẬP KHẨU

Thách Thức Xuất Khẩu Nông Sản và Bảo Vệ Môi Trường

Xuất khẩu nông sản của Việt Nam đang đối mặt với một loạt thách thức quan trọng, đặc biệt là trong bối cảnh các quy định về phát triển bền vững và bảo vệ môi trường đang trở thành xu hướng không thể tránh được các thị trường xuất khẩu chính của nước.

trien lam 2

Mặc dù đã đạt được những thành tựu tích cực trong việc xuất khẩu nông sản, tình hình không khỏi đối diện với nhiều khó khăn. Bà Nguyễn Thảo Hiền, Phó Vụ trưởng Vụ Thị trường châu Âu – châu Mỹ (Bộ Công Thương), cụ thể trong buổi hội thảo Sự kiện “Đưa nông sản và thực phẩm chế biến của Việt Nam vào hệ thống phân phối quốc tế” diễn ra vào ngày 14/9 đã thảo luận về sự gia tăng đáng kể trong kim ngạch xuất khẩu nông sản, thủy sản và thực phẩm trong vài năm gần đây. Tổng kim ngạch xuất khẩu đã đạt khoảng 53,2 tỷ USD vào năm 2022, tăng khoảng 10% so với năm 2021.

THÁCH THỨC ĐÁP ỨNG CÁC TIÊU CHÍ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG

Tuy nhiên, năm 2023 dù phải đối mặt với nhiều khó khăn bao gồm cả tình hình lạm phát gia tăng ở các thị trường xuất khẩu chủ lực, Việt Nam vẫn ​​vượt qua ngưỡng 50 tỷ USD trong kim ngạch xuất khẩu nông sản, thủy sản và thực phẩm. Việt Nam hiện nay đứng trong top 3 nhà cung ứng lớn nhất thế giới về cà phê, hạt điều, hạt tiêu và lớn thứ ba về gạo.

Bà Hiền cho rằng, dù có những thành tựu đáng kể, ngành nông sản của Việt Nam đang đối diện với những thách thức quan trọng. Cụ thể, quy định về phát triển bền vững và bảo vệ môi trường đang trở nên ngày càng quan trọng tại hầu hết các thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam. Các quốc gia không chỉ đang điều chỉnh khung pháp lý của họ liên quan đến phát triển bền vững và bảo vệ môi trường mà còn đang tạo ra những cam kết mạnh mẽ tại các hội nghị quốc tế về biến đổi khí hậu như COP26 và COP27.

trien lam quoc te

Đặc biệt, EU đã dẫn đầu trong việc ban hành các quy định nghiêm ngặt như Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM) và Quy định chống suy thoái rừng (EUDR). Những quy định này bắt buộc các nhà nhập khẩu vào EU phải báo cáo lượng khí nhà kính phát thải từ hàng hóa của họ và nếu vi phạm, họ sẽ bị phạt.

Mỹ, Canada cũng đang xem xét áp dụng các biện pháp tương tự CBAM và EUDR của EU. EU cũng đã nêu rõ rằng các nhóm hàng hóa thuộc phạm vi của CBAM và EUDR sẽ được mở rộng trong tương lai.

Tổng hợp lại, quy định về bảo vệ môi trường đang trở nên ngày càng nghiêm ngặt tại các thị trường xuất khẩu quan trọng của Việt Nam như EU, North America (Bắc Mỹ) và các thị trường phía Đông Bắc của châu Á. Điều này đòi hỏi sự nỗ lực đáng kể từ phía các doanh nghiệp nông sản nếu muốn duy trì vị trí của họ trên những thị trường này.

CẦN XANH TỪ SẢN XUẤT, CANH TÁC 

Để đáp ứng yêu cầu của thị trường và duy trì sự phát triển trong tương lai, việc thực hiện chuyển đổi hướng tới sự bền vững và áp dụng mô hình kinh tế tuần hoàn là một xu hướng không thể tránh. Hiện tượng này đang tạo ra một cơ hội mới trong thương mại và đầu tư toàn cầu.

Bên cạnh chất lượng sản phẩm và giá trị, khách hàng ngày càng quan tâm đến việc các doanh nghiệp có đang tuân thủ các yêu cầu cao từ phía khách hàng, bao gồm cả việc giảm phát thải, thực hiện quy trình sản xuất sạch, thúc đẩy kinh tế tuần hoàn và thúc đẩy sự phát triển bền vững.

Theo ông Trần Minh Thắng, đại diện Thương vụ Việt Nam tại Hoa Kỳ, việc tuân thủ các quy định về an toàn thực phẩm là một điều kiện tiên quyết để sản phẩm nông sản và trái cây có thể thâm nhập vào thị trường Hoa Kỳ. Điều này đòi hỏi các giai đoạn từ canh tác đến thu hoạch phải tuân theo các quy định và tiêu chuẩn của thị trường nhập khẩu.

Ngoài ra, cần thiết phải cải thiện công nghệ bảo quản sau thu hoạch, đảm bảo tính nhất quán trong quy trình sơ chế, đóng gói, lưu trữ và vận chuyển, để đảm bảo điều kiện nhiệt độ và độ ẩm lý tưởng cho sản phẩm nông sản.

Ông Lê Thanh Hòa, Phó Cục trưởng Cục Chất lượng chế biến và phát triển thị trường, kiêm Giám đốc Văn phòng SPS Việt Nam nhấn mạnh rằng việc phát triển bền vững trong chuỗi cung ứng nông sản và đảm bảo an toàn thực phẩm là vô cùng quan trọng trong ngành này. Doanh nghiệp cần phải thực hiện chuyển đổi để đáp ứng những yêu cầu này.

Bên cạnh vai trò của doanh nghiệp, Nhà nước cũng cần hoàn thiện thể chế chính sách pháp luật và xây dựng tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật phù hợp với thực tế và quy chuẩn quốc tế. Điều này bao gồm việc đầu tư nguồn lực, tạo cơ chế để đào tạo quản lý, giám sát, hướng dẫn và hỗ trợ đảm bảo chất lượng, an toàn thực phẩm trong các giai đoạn từ sản xuất, thu hoạch, bảo quản, chế biến, đến kết nối với thị trường nội địa và quốc tế.

Ngoài ra, cần phải cập nhật quy định và thông tin phân tích thị trường và nắm bắt sự thay đổi trong sở thích của người tiêu dùng để phát triển sản phẩm phù hợp. Đồng thời, triển khai các đề án phát triển nguồn nguyên liệu, cải thiện hệ thống logistics theo chuỗi cung ứng nông sản, giảm tổn thất sau thu hoạch và nâng cao chất lượng sản phẩm nông lâm thủy sản. Ngoài ra, cần tạo điều kiện để doanh nghiệp và người dân có thể tiếp cận với công nghệ, chuyển đổi số và kênh tiếp thị kỹ thuật số để kết nối với thị trường và người tiêu dùng.

Nguồn: Vinacas

Categories
Báo cáo chính sách Giá cả thị trường Giá cả thị trường NÔNG NGHIỆP 360 TIN NÔNG NGHIỆP Trái cây Uncategorized Xuất nhập khẩu XUẤT NHẬP KHẨU

Ngành cam quýt của Zimbabwe tăng cường xuất khẩu sang Trung Quốc

Vào ngày 1 tháng 6, Tổng cục Hải quan Trung Quốc đã công bố danh sách các vườn cây có múi và nhà đóng gói của Zimbabwe được phép xuất khẩu sang Trung Quốc . Danh sách này bao gồm 11 vườn cây ăn quả và 6 cơ sở đóng gói. Theo Giám đốc điều hành của Hội đồng Phát triển Làm vườn Zimbabwe, Linda Nielsen, xuất khẩu cam quýt sang Trung Quốc có thể bắt đầu sớm nhất là vào cuối tháng 6. Bà cho biết: “Mùa vụ sẽ bắt đầu trong vòng hai tuần tới”, đồng thời cho biết thêm rằng quy mô của lô hàng ban đầu sẽ phụ thuộc vào số lượng đơn đặt hàng nhận được từ người mua Trung Quốc.

Để đảm bảo lô hàng đầu tiên được vận chuyển suôn sẻ, hội đồng hiện đang làm việc với các trang trại và cơ sở đóng gói đã được GACC công nhận để đảm bảo tuân thủ các quy định của Trung Quốc.

Do tính chất không giáp biển của Zimbabwe, GACC cũng đã công bố các điều kiện đối với các chuyến hàng cam quýt của Zimbabwe qua các nước thứ ba . Các lô hàng sẽ chỉ được phép rời khỏi nhà đóng gói sau khi kiểm tra trước khi khởi hành và Bộ Đất đai, Nông nghiệp, Thủy sản, Nước và Phát triển Nông thôn của Zimbabwe được yêu cầu lấy mẫu 2% trên mỗi lô trái cây xuất khẩu sang Trung Quốc. Nếu không tìm thấy vấn đề kiểm dịch thực vật trong vòng hai năm đầu tiên, tỷ lệ lấy mẫu có thể giảm xuống 1%.

Xử lý lạnh, là biện pháp phòng ngừa bắt buộc để tránh lây truyền côn trùng gây hại, có thể được áp dụng khi lô hàng đang quá cảnh, kể cả tại các cảng ở nước thứ ba, nhưng phải được Bộ hoặc một trong các đơn vị được Bộ phê duyệt giám sát. Zimbabwe được cho là đang xem xét vận chuyển những lô hàng cam quýt đầu tiên sang Trung Quốc qua Cảng Durban ở Nam Phi, đồng thời tiến hành vận chuyển thử nghiệm tới các thị trường ở Trung Đông và Viễn Đông qua Cảng Beira ở Mozambique. Tuy nhiên, do tình trạng tắc nghẽn giao thông tại Durban năm ngoái, các chuyến hàng cam quýt dành cho Trung Quốc có thể sẽ được chuyển sang Beira trong tương lai. Theo thông báo của GACC, thời hạn hiệu lực của đợt kiểm tra trước khi khởi hành của Bộ được giới hạn trong 30 ngày.

Những thông báo gần đây của GACC được đưa ra gần một năm sau khi Zimbabwe và Trung Quốc hoàn tất quy trình xuất khẩu cam quýt và 8 năm sau khi quy trình này được bắt đầu vào năm 2015 . Hiện tại, Zimbabwe có khoảng 4.000 ha đất dành riêng cho việc trồng cây có múi, mặc dù con số này có thể sẽ tăng lên trong tương lai nhờ khả năng tiếp cận mới vào thị trường Trung Quốc sinh lợi. Năm 2022, Zimbabwe đã xuất khẩu 57.283 tấn cam quýt sang Singapore, Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất, Malaysia, Hồng Kông, Hà Lan, Anh và Zambia.

Theo Nielsen, Hội đồng Phát triển Làm vườn hiện đang làm việc với Viện Dịch vụ Kiểm dịch Thực vật của Zimbabwe để đảm bảo khả năng tiếp cận thị trường Trung Quốc cho quả việt quất, bơ và ớt.

Nguồn: Produce Report

Categories
Giá cả thị trường Giá cả thị trường NÔNG NGHIỆP 360 Nông sản chế biến TIN NÔNG NGHIỆP Tin tức Xuất nhập khẩu XUẤT NHẬP KHẨU

Thương Mại Nông Sản Việt Nam-Mỹ: Nhập Khẩu 14 Tỷ USD, Mỹ Ưa Chuộng Sản Phẩm Từ Trái Dừa đến Cá Tra Việt Nam

(10/9/2023) Tổng quan về xuất nhập khẩu nông sản giữa Việt Nam và Mỹ: Việt Nam nhập khẩu 14 tỷ USD, người Mỹ ưa chuộng các mặt hàng từ trái dừa đến cá tra của Việt Nam.

Vào đầu tháng 8/2023, thông tin từ Cục Kiểm dịch thực vật Mỹ (APHIS) cho biết rằng trái dừa của Việt Nam đã được chấp thuận xuất khẩu sang Kết quả là, đã có tới 8 loại trái cây Việt Nam được xuất khẩu vào Mỹ một cách tức thì. Ngoài ra, Mỹ còn là thị trường hàng đầu đối với cà phê, tiêu, điều, cá tra, và đồ gỗ của Việt Nam.

Trong những năm gần đây, Mỹ luôn là một trong những thị trường xuất khẩu lớn nhất cho nông sản và thủy sản của Việt Nam. Từ năm 2020, Mỹ đã trở thành đối tác thương mại hàng đầu của Việt Nam trong lĩnh vực nông, lâm, và thủy sản. Ngay cả trong giai đoạn khó khăn do đại dịch COVID-19, chuỗi cung ứng bị gián đoạn, cả xuất khẩu và nhập khẩu nông, lâm, thủy sản giữa Việt Nam và Mỹ vẫn tăng trưởng ấn tượng.

Năm 2021, kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản của Việt Nam sang Mỹ đã đạt 11,9 tỷ USD, chiếm 27,5% tổng giá trị xuất khẩu nông sản của Việt Nam. Năm 2022, con số này đã tăng lên khoảng 14 tỷ USD, đồng thời củng cố vị thế của Mỹ là thị trường xuất khẩu nông lâm thủy sản hàng đầu của Việt Nam.

Trong năm 2022, một số sản phẩm xuất khẩu lớn của Việt Nam sang Mỹ bao gồm thủy sản (2,1 tỷ USD, tăng 4%), gỗ và sản phẩm gỗ (8,67 tỷ USD, giảm nhẹ 1%), và điều (842 triệu USD, giảm 19%).

Trong 8 tháng đầu năm 2023, kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản của Việt Nam sang Mỹ đã giảm 27,4% và chiếm 20,6% tổng kim ngạch xuất khẩu, nhưng Mỹ vẫn duy trì vị trí thị trường xuất khẩu nông lâm thủy sản lớn thứ hai của Việt Nam, sau Trung Quốc.

bo nong nghiep va phat trien nong thon

Ví dụ, trong 6 tháng đầu năm 2023, Việt Nam đã xuất khẩu 26.620 tấn hạt tiêu sang Mỹ, trị giá 117,79 triệu USD, và thị phần hạt tiêu của Việt Nam trên thị trường Mỹ duy trì ở mức 79,1%.

Tương tự, với mặt hàng điều, thị phần hạt điều của Việt Nam trong tổng lượng nhập khẩu của Mỹ trong 6 tháng năm 2023 đạt 87,17% (giảm so với mức 91,61% của cùng kỳ năm 2022), với 55.830 tấn hạt điều, trị giá 317,85 triệu USD.

Vấn đề trong xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam sang Mỹ đã giảm đáng kể trong 7 tháng đầu năm 2023 do tác động của lạm phát, nhưng vẫn chiếm tỷ trọng cao nhất, với kim ngạch đạt 3,9 tỷ USD.

Lưu ý, xuất khẩu thủy sản sang Mỹ đã có dấu hiệu tích cực khi lạm phát đang ổn định và điều này có thể hỗ trợ tăng cầu tiêu dùng thủy sản tại thị trường này. Trong 7 tháng đầu năm 2023, kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang Mỹ đạt 854,1 triệu USD, giảm 41,8% so với cùng kỳ năm 2022. Tuy giảm, nhưng Mỹ vẫn là thị trường nhập khẩu thủy sản lớn nhất của Việt Nam.

hoi nghi thuong mai viet mi

Báo cáo thị trường nông sản từ Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) đã dự báo rằng nhập khẩu nông sản của Mỹ trong năm 2023 sẽ đạt mức 199 tỷ USD, cao hơn 5 tỷ USD so với năm trước. Điều này tạo ra cơ hội lớn cho các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản, lâm sản và thủy sản của Việt Nam để gia tăng xuất khẩu vào thị trường Mỹ.

Trong buổi tiếp đón đoàn doanh nghiệp của Hội đồng Kinh doanh Mỹ – ASEAN (USABC) vào tháng 3/2023, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã thông tin rằng trong lĩnh vực nông nghiệp, Việt Nam đang tiếp tục nghiên cứu và ban hành các chính sách khuyến khích cụ thể, dài hạn để tạo môi trường đầu tư hấp dẫn thông qua các cơ chế và chính sách thực tế, đồng thời đề nghị các doanh nghiệp Mỹ quan tâm đầu tư trong lĩnh vực này.

Thủ tướng cũng đã đề xuất rằng các doanh nghiệp Mỹ có thể gia tăng hỗ trợ cho doanh nghiệp và người dân Việt Nam trong việc kết nối cơ sở sản xuất với thị trường tiêu thụ. Cả hai bên cũng đã đề cập đến việc mở rộng thị trường cho các sản phẩm nông sản của Việt Nam như trái cây, cá da trơn, tôm… tại Mỹ.

Theo Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, ông Nguyễn Đỗ Anh Tuấn, trong năm vừa qua Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã đón tiếp nhiều đoàn cấp cao của Mỹ để hợp tác trong lĩnh vực nông nghiệp. Điều này thể hiện sự quan trọng của Việt Nam trong hợp tác nông nghiệp với Mỹ.

vuon buoi

 Ưu tiên đẩy mạnh cho một số sản phẩm xuất khẩu có TIềm năng của Việt Nam sang MỸ.

Công ty cổ phần Tập đoàn Xuất nhập khẩu trái cây Chánh Thu là một trong những doanh nghiệp hàng đầu được chọn làm đối tác để xuất khẩu xoài và bưởi đến Mỹ. Bà Ngô Tường Vy, Tổng Giám đốc của Công ty này, cho biết vào tháng 5/2022, trong chuyến công tác tại Mỹ của Thủ tướng Phạm Minh Chính, bà đã tham dự buổi làm việc giữa Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Lê Minh Hoan với Tập đoàn Walmart để kết nối nông nghiệp Việt Nam với chuỗi siêu thị toàn cầu này. Đại diện của Tập đoàn Walmart đã thể hiện mong muốn mua các sản phẩm trái cây như xoài và sầu riêng đông lạnh từ Việt Nam, cùng nhiều sản phẩm trái cây khác.

Bà Ngô Tường Vy nhấn mạnh rằng các doanh nghiệp Việt Nam cần cùng nhau xây dựng chiến lược để tận dụng thị trường Mỹ. Điều này bao gồm việc đa dạng hóa sản phẩm và đáp ứng nhu cầu thị trường Mỹ để có thể cạnh tranh hiệu quả hơn.

Chuyen xe hop tac

Bộ trưởng Lê Minh Hoan đã nhấn mạnh rằng nông nghiệp Việt Nam không chỉ đóng vai trò trong lĩnh vực kinh tế mà còn đóng góp vào cấu trúc xã hội và cuộc sống của hàng triệu nông dân. Do đó, mọi thay đổi trong thương mại nông sản cũng có tác động lớn đến sinh kế của họ.

Việt Nam cam kết xây dựng một nền nông nghiệp minh bạch và có trách nhiệm trong thương mại quốc tế, bao gồm cả giao thương với Mỹ. Bộ trưởng Hoan cũng nhấn mạnh sự sẵn sàng của Việt Nam trong việc đánh giá các sản phẩm biến đổi gen. 

Việc công bố kết quả nghiên cứu và sản xuất vaccine phòng bệnh dịch tả lợn châu Phi (ASF) là một minh chứng rõ ràng cho hiệu suất hợp tác khoa học kỹ thuật giữa các nhà khoa học Mỹ và Việt Nam.

Để thúc đẩy xuất khẩu nông sản sang Mỹ, các doanh nghiệp Mỹ đề nghị Việt Nam tăng đầu tư vào công nghệ bảo quản để sản phẩm trái cây tươi có thể được vận chuyển đường biển đến Mỹ. Họ cũng khuyến nghị sử dụng các Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) để tận dụng lợi ích thuế quan tốt nhất và làm cho hàng hóa của Việt Nam cạnh tranh hơn.

Ngoài việc xuất khẩu trái cây tươi, các doanh nghiệp Việt Nam có thể tăng cường sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm chế biến sẵn bằng công nghệ hiện đại. Đồng thời, cần triển khai mô hình “nông nghiệp thông minh” dựa trên ứng dụng công nghệ để tăng năng suất và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu.

Các nhà xuất khẩu cũng cần chú ý đến việc tham gia vào các cuộc điều tra chống bán phá giá và duyệt hàng hóa xuất khẩu. Thị trường Mỹ ngày càng chú trọng đến các vấn đề liên quan đến an toàn thực phẩm, phát triển bền vững và chuỗi cung ứng, và đây sẽ là cơ hội để thiết lập các tiêu chuẩn và quy định mới.

Ông Nguyễn Đỗ Anh Tuấn cũng đề xuất việc tăng cường kết nối giữa các doanh nghiệp và hiệp hội ngành hàng của Việt Nam với cảng nhập khẩu, chuỗi logistics nông sản lớn, hệ thống phân phối và các hiệp hội ngành hàng tại Hoa Kỳ. Điều này sẽ giúp mở rộng thị trường và tận dụng cơ hội thương mại nông lâm thủy sản với Mỹ.

 

Tăng cường kết nối giữa doanh nghiệp và hiệp hội trong lĩnh vực nông sản của Việt Nam với các cảng nhập khẩu, hệ thống logistics lớn, và các tổ chức phân phối tại Hoa Kỳ. Đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi cho sự kết nối giữa các doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng và địa phương tại Việt Nam với các địa phương có tiềm năng và nhu cầu để thúc đẩy thương mại nông sản, thủy sản với Hoa Kỳ.

Dưới đây là một số mặt hàng nông sản ưu tiên xuất khẩu sang Hoa Kỳ:

1. Gỗ và sản phẩm gỗ: Tập trung vào những sản phẩm gỗ nổi bật của Việt Nam như đồ nội thất gỗ, đồ nội thất cho phòng khách, phòng ăn và phòng ngủ.

2. Thủy sản: Thúc đẩy mở cửa thị trường cho các sản phẩm thủy sản như cá ngừ, mực và bạch tuộc, sản phẩm gia công cao cấp (tôm, cá da trơn, cá rô phi), và các sản phẩm thủy sản đã qua chế biến để phục vụ nhu cầu đa dạng của thị trường Hoa Kỳ.

3. Hạt điều: Tiếp tục mở rộng thị phần cung ứng hạt điều nguyên liệu vào thị trường Hoa Kỳ, và tìm cơ hội thúc đẩy thương mại cho sản phẩm hạt điều đã qua chế biến.

4. Hồ tiêu: Tập trung vào việc phát triển sản phẩm chế biến từ hồ tiêu, đa dạng hóa các sản phẩm thực phẩm và phi thực phẩm chứa thành phần của hồ tiêu; từng bước xây dựng thương hiệu hồ tiêu của Việt Nam tại thị trường Hoa Kỳ.

5. Cà phê: Tiếp tục mở rộng thị phần cung ứng cà phê chất lượng cao vào thị trường Hoa Kỳ.

6. Rau quả: Tiếp tục thương lượng để mở cửa thị trường cho các loại rau quả tươi của Việt Nam như sầu riêng, chanh leo, bơ, dừa, măng tây… và các sản phẩm chế biến sẵn.

Bằng việc duy trì chiến lược này và tạo điều kiện để thúc đẩy kết nối, Việt Nam mong muốn củng cố vị trí của mình trên thị trường Hoa Kỳ và thúc đẩy xuất khẩu các sản phẩm nông sản và thủy sản chất lượng cao đa dạng.

Nguồn: Vinacas