Chuyên mục
NÔNG NGHIỆP 360 Tin tức sự kiện

Báo cáo chung về tình hình KT-XH của tháng 1/2024

Trong khoảng thời gian từ ngày 01/01 đến hết ngày 15/01/2024, tổng giá trị xuất nhập khẩu hàng hóa sơ bộ đạt 29,78 tỷ USD, tăng 5,4% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu tăng 4,1% và kim ngạch nhập khẩu tăng 6,8%. Cán cân thương mại hàng hóa xuất siêu đạt 0,38 tỷ USD.

1. Số liệu sản xuất nông nghiệp

a) Về tình hình nông nghiệp

Trong tháng 01/2024, hoạt động sản xuất nông nghiệp tập trung chủ yếu vào gieo cấy, chăm sóc lúa đông xuân và trồng cây hoa màu trên khắp cả nước. Đến ngày 15/01/2024, diện tích gieo cấy lúa đông xuân đã đạt 1.821,4 nghìn ha, tương đương 96,9% so với cùng kỳ năm trước. Cụ thể, các địa phương ở miền Bắc đã gieo cấy được 63,4 nghìn ha, tương ứng với 66,6% so với cùng kỳ năm trước. Trong khi đó, các địa phương ở miền Nam đã đạt 1.757,9 nghìn ha, tương đương với 98,5%, và riêng vùng Đồng bằng sông Cửu Long đã đạt 1.427,7 nghìn ha, chiếm 99,5% so với cùng kỳ năm trước.

Đối với cây hàng năm, diện tích ngô và lạc đã giảm so với cùng kỳ năm trước, chủ yếu là do hiệu quả kinh tế không cao, khiến người dân có xu hướng chuyển sang trồng đậu tương, khoai lang và các loại rau để nhắm vào người tiêu dùng trong dịp Tết Nguyên Đán.

Đến thời điểm cuối tháng 01/2024, tổng số lợn của cả nước đã tăng 4,1% so với cùng thời điểm năm 2023; tổng số bò tăng 0,4%; tổng số trâu giảm 1,2%; tổng số gia cầm tăng 3,6%. Tính đến ngày 23/01/2024, dịch lợn tai xanh và dịch lở mồm long móng không còn diễn ra trên toàn quốc, chỉ còn ở Hòa Bình và Cao Bằng; dịch cúm gia cầm còn tồn tại ở Bắc Ninh và Tiền Giang; dịch viêm da nổi cục còn ở Tiền Giang; dịch tả lợn châu Phi vẫn còn ở 16 địa phương chưa qua 21 ngày. Đáng chú ý, hiện nay đang ghi nhận sự xuất hiện của dịch dại trên động vật tại 5 địa phương chưa qua 21 ngày.

san xuat nong nghiep

b) Về tình hình lâm nghiệp

Trong tháng 01/2024, diện tích rừng trồng mới tập trung cả nước ước đạt 7,8 nghìn ha, giảm 4,3% so với cùng kỳ năm 2023. Diện tích rừng bị thiệt hại là 31,5 ha, giảm 0,8%, trong đó diện tích rừng bị cháy là 2,5 ha, tăng 2%, diện tích rừng bị chặt, phá là 29 ha, giảm 1%.

c) Về tình hình thủy hải sản

Trong tháng 01/2024, sản lượng thủy sản ước đạt 590,1 nghìn tấn, tăng 3,1% so với cùng kỳ năm trước. Đạt 313,3 nghìn tấn, sản lượng thủy sản nuôi trồng tăng 1,9%, trong khi sản lượng thủy sản khai thác đạt 276,8 nghìn tấn, tăng 4,6%.

lam nghiep va thuy san

2. Số liệu sản xuất công nghiệp

IIP tháng 01/2024 giảm 4,4% so với tháng trước, nhưng tăng 18,3% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành chế biến, chế tạo tăng 19,3%, đóng góp 15,1 điểm phần trăm. Sản xuất và phân phối điện tăng 21,6%, cung cấp nước, quản lý rác thải, nước thải tăng 5,7%. Ngành khai khoáng tăng 7,3%, đóng góp 1,2 điểm phần trăm.

Sản xuất công nghiệp tháng 01/2024 tăng ở 60 địa phương và giảm ở 3 địa phương trên cả nước. Số lao động trong các doanh nghiệp công nghiệp tăng 0,5% so với tháng trước và tăng 0,1% so với cùng kỳ năm trước.

san xuat cong nghiep

3. Tình hình đăng ký của doanh nghiệp 1/2024

Trong tháng Một năm 2024, cả nước ghi nhận sự thành lập mới của 13,5 nghìn doanh nghiệp, tăng 2,2% so với tháng trước và tăng đáng kể lên đến 24,8% so với cùng kỳ năm trước. Đồng thời, có gần 13,8 nghìn doanh nghiệp tái khởi đầu hoạt động, tăng đến gấp đôi so với tháng trước và giảm 8,4% so với cùng kỳ năm 2023. Tổng số doanh nghiệp mới thành lập và quay trở lại hoạt động trong tháng 01/2024 đã vượt qua con số 27,3 nghìn doanh nghiệp, đánh dấu một tăng trưởng ấn tượng lên đến 5,5% so với cùng kỳ năm trước.

Trong tháng 01/2024, số lượng doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh có thời hạn lên đến 43,9 nghìn, tăng mạnh đến 25,5% so với cùng kỳ năm trước. Đồng thời, có 7.798 doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, tăng 14% và 2.165 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, tăng 6,2%. Số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường cũng đạt đến con số đáng kể là 53,9 nghìn, tăng cao đến 22,8% so với cùng kỳ năm trước.

tinh hinh dk cua dn

4. Hoạt động đầu tư

Trong tháng 01/2024, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước đạt 31,1 nghìn tỷ đồng, đạt đến 4,4% kế hoạch năm và tăng 12,5% so với cùng kỳ năm trước (so với cùng kỳ năm 2023, tăng 3,8% và 5,6% lần lượt).

Đạt 2,36 tỷ USD, tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký vào Việt Nam tính đến ngày 20/01/2024, bao gồm vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài, đã tăng mạnh đến 40,2% so với cùng kỳ năm trước.

Trong tháng 01/2024, vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài vào Việt Nam đạt 1,48 tỷ USD, tăng 9,6% so với cùng kỳ năm trước.

Đồng thời, đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài trong tháng này ghi nhận 11 dự án mới được cấp giấy chứng nhận đầu tư, với tổng số vốn từ Việt Nam đạt 16,2 triệu USD, tăng đến 9,3 lần so với cùng kỳ của năm trước.

cac hoat dong dau tu

5. Thu, chi ngân sách Nhà nước

Trong 15 ngày đầu tháng 01/2024, tổng thu ngân sách Nhà nước ước đạt 43,7 nghìn tỷ đồng, đạt 2,6% so với dự toán năm.

Trong khi đó, tổng chi ngân sách Nhà nước trong cùng khoảng thời gian dự kiến đạt 46,4 nghìn tỷ đồng, tương đương 2,2% so với dự toán năm.

6. Bán lẻ và dịch vụ

a) Doanh số bán lẻ hàng hóa và doanh thu từ dịch vụ tiêu dùng

Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng trong tháng Một năm 2024 ước đạt 524,1 nghìn tỷ đồng, tăng 1,6% so với tháng trước và tăng lên 8,1% so với cùng kỳ năm 2023. Nếu loại trừ yếu tố giá tăng 5,8% (so với cùng kỳ năm 2023 tăng 9,1%), tăng trưởng vẫn đạt mức khá ổn định. 

ban le va dich vu

b) Xuất, nhập khẩu hàng hóa trong tháng 1/2024

Trong kỳ 1 tháng 01/2024 (từ ngày 01/01 đến hết ngày 15/01/2024), tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa[4] sơ bộ đạt 29,78 tỷ USD, tăng 5,4% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, xuất khẩu tăng 4,1%, trong khi nhập khẩu tăng 6,8%. Cán cân thương mại hàng hóa tháng trước đã ghi nhận một tình hình tích cực, với mức xuất siêu đạt 0,38 tỷ USD.

Xuất khẩu hàng hóa trong tháng 01/2024 

Có sự tăng trưởng tích cực. Đạt 15,08 tỷ USD, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa sơ bộ đã tăng 4,1% so với cùng kỳ năm trước tính đến hết ngày 15/01/2024.

Tính đến hết ngày 15/01/2024, nhóm hàng công nghiệp chế biến đã chiếm tỷ trọng lớn với 13,35 tỷ USD, đóng góp 88,5% vào tổng kim ngạch xuất khẩu.

Nhập khẩu hàng hóa

Đạt 14,7 tỷ USD, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa sơ bộ đã ghi nhận mức tăng 6,8% so với cùng kỳ năm trước trong khoảng thời gian đến hết ngày 15/01/2024.

Trong cơ cấu nhóm hàng nhập khẩu tính đến hết ngày 15/01/2024, nhóm hàng tư liệu sản xuất sơ bộ đã chiếm phần lớn với 13,83 tỷ USD, tương đương 94,1% tổng kim ngạch nhập khẩu.

Cán cân thương mại hàng hóa trong kỳ 1 tháng Một, dù vẫn ghi nhận xuất siêu nhưng đã giảm xuống còn 0,38 tỷ USD (so với 0,73 tỷ USD cùng kỳ năm trước). Trong đó, khu vực kinh tế trong nước tiếp tục nhập siêu với số liệu lên tới 1,19 tỷ USD, trong khi khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (bao gồm cả dầu thô) vẫn duy trì xuất siêu với 1,57 tỷ USD.

xuat nhap khau

c) Giá Đô la Mỹ, giá vàng và Chỉ số giá tiêu dùng

Trong tháng 01/2024, Chỉ số Giá Tiêu Dùng (CPI) tăng 0,31% so với tháng trước. So với cùng kỳ năm 2023, CPI tháng Một ghi nhận mức tăng 3,37%, trong khi lạm phát cơ bản tháng 01/2024 tăng 2,72%.

Chỉ số Giá Vàng trong tháng 01/2024 tăng 2,55% so với tháng 12/2023 và ghi nhận mức tăng 15,43% so với cùng kỳ năm trước.

Trong tháng 01/2024, Chỉ số Giá Đô la Mỹ tăng 0,52% so với tháng 12/2023 và ghi nhận mức tăng 3,69% so với cùng kỳ năm trước.

chi so gia

d) Vận tải bao gồm hành khách và hàng hóa

Trong tháng Một, ngành Vận Tải Hành Khách ghi nhận ước đạt 392,7 triệu lượt khách vận chuyển, tăng 3% so với tháng trước và tăng 5,5% so với cùng kỳ năm trước. Tính đến cuối tháng, tỷ lệ luân chuyển đạt 22,7 tỷ lượt khách.km, tăng 3,6% so với tháng trước và tăng 7,4% so với cùng kỳ năm trước.

Trong tháng Một, ngành Vận Tải Hàng Hóa ghi nhận ước đạt 205 triệu tấn hàng hóa vận chuyển, tăng 1,8% so với tháng trước và tăng 11,5% so với cùng kỳ năm trước. Tổng số luân chuyển đạt 43 tỷ tấn.km, giảm nhẹ 0,2% so với tháng trước nhưng tăng 13,8% so với cùng kỳ năm trước.

van tai hang hoa

đ) Khách quốc tế đến Việt Nam

Chính sách xúc tiến và quảng bá du lịch đã được triển khai rộng rãi, đồng thời, Việt Nam tiếp tục duy trì vị thế là điểm đến an toàn và hấp dẫn. Kết quả là, số lượng khách quốc tế đến nước ta trong tháng Một đã vượt qua con số 1,5 triệu lượt người, tăng 10,3% so với tháng trước và tăng đáng kể lên đến 73,6% so với cùng kỳ năm trước.

luoc doan khach quoc te

7. Một số tình hình xã hội

Theo khảo sát thực hiện trong tháng Một năm 2024, tỷ lệ hộ dân cư đánh giá có thu nhập trong tháng không có sự thay đổi so với tháng trước, đồng thời cũng đã tăng lên so với cùng kỳ năm trước, đạt đến 92,4%.

Trong khoảng thời gian từ 15/12/2023 đến 14/01/2024, trên toàn quốc đã ghi nhận tổng cộng 2.434 vụ tai nạn giao thông. Trung bình mỗi ngày trong tháng, số vụ tai nạn giao thông trên cả nước là 79, trong đó bao gồm 52 vụ tai nạn từ ít nghiêm trọng và số vụ giao thông thống kê được là 27 vụ. Số liệu này cũng cho thấy có 31 người thiệt mạng, 35 người bị thương và 31 người gặp phải thương tích nhẹ.

Trong tháng, mưa lớn làm sạt lở và mất tích 9 người cùng 1 người bị thương. Hơn nữa, hơn 969,4 ha lúa và hoa màu bị hư hại. Đồng thời, 72 ngôi nhà bị ngập hư hại, với thiệt hại ước tính lên đến 62,2 tỷ đồng, tăng gấp 3,9 lần so với cùng kỳ năm 2023.

Trong khoảng thời gian từ ngày 17/12/2023 đến ngày 16/01/2024, đã có 3.443 vụ vi phạm môi trường được phát hiện, trong đó có 2.952 vụ đã được xử lý, với tổng số tiền phạt đạt 26,1 tỷ đồng. Số liệu này ghi nhận mức tăng 49,5% so với tháng trước nhưng giảm 6,8% so với cùng kỳ năm trước.

Trong tháng 01/2024, đã có 376 vụ cháy, nổ xảy ra trên toàn quốc, làm 5 người thiệt mạng và 1 người bị thương, với thiệt hại ước tính lên đến 19,5 tỷ đồng. Số liệu này ghi nhận mức tăng gấp 4,6 lần so với tháng trước và gấp 2,7 lần so với cùng kỳ năm trước.

nhung con so noi len su nguy hiem cua tai nan giao thong

Nguồn: Tổng Cục Thống Kê

Chuyên mục
NÔNG NGHIỆP 360 Tin tức sự kiện

Campuchia thu về 4 tỷ USD, vượt gấp 3 lần sản lượng Ấn Độ năm 2023

Hạt điều đang là mặc hàng được thế giới chú ý và săn lùng, ngoài Việt Nam mặt hàng này còn được săn lùng ở Campuchia.

hat dieu xuat khau

Việt Nam, là “ông vua” xuất khẩu hạt điều với doanh thu hàng tỷ USD mỗi năm, tuy nhiên, nước ta vẫn phải phụ thuộc nhiều vào việc nhập khẩu điều thô từ nhiều nguồn cung trên thế giới. Thông tin từ Tổng cục Hải quan cho thấy, trong tháng 12, lượng nhập khẩu hạt điều giảm 21,5%, đạt 111.942 tấn, với trị giá hơn 123 triệu USD, giảm 16,7% so với tháng 11. Trong cả năm 2023, Việt Nam đã nhập khẩu hơn 2,7 triệu tấn hạt điều, trị giá hơn 3,1 tỷ USD, tăng đáng kể lên đến 46,2% về lượng và 19,6% về trị giá so với năm trước.

Giá nhập khẩu bình quân đạt 1.153 USD/tấn, giảm 18% so với năm 2022. Trong khi Bờ Biển Ngà là đối tác cung cấp lớn nhất với 899.430 tấn, trị giá hơn 969 triệu USD và giá nhập khẩu bình quân là 1.078 USD/tấn, thì thị trường châu Á, đặc biệt là Campuchia, vẫn đóng vai trò quan trọng. Campuchia là nguồn cung cấp hàng đầu của Việt Nam với 644.191 tấn hạt điều và trị giá hơn 836 triệu USD, mặc dù giảm 9% về lượng và 23% về trị giá so với năm trước.

Mặc dù vững mạnh trong vai trò xuất khẩu, sự phụ thuộc vào nhập khẩu nguyên liệu thô đồng thời gặp phải biến động giá cả, đặt ra những thách thức cho ngành công nghiệp này trong tương lai.

bieu do hat dieu trong nam 2022Giá nhập khẩu trung bình giảm 11,3%, đạt 1.357 USD/tấn. Theo Bộ Nông, Lâm, Ngư nghiệp Campuchia, năm 2022, quốc gia này có 435.733 ha trồng điều, thu hoạch từ 330.861 ha với sản lượng 508.283 tấn. Trong cùng năm, Campuchia xuất khẩu 471.520 tấn hạt điều thô và 1.557 tấn hạt điều nhân, thu về hơn 1,07 tỷ USD. Đáng chú ý, 98,5% sản lượng điều xuất khẩu của Campuchia được bán sang Việt Nam.

Ông Suy Kok Thean, Phó Chủ tịch Hiệp hội Điều Campuchia, cho biết thị trường chưa chế biến lớn nhất của Campuchia là Việt Nam, tuy nhiên, nhiều thương lái quốc tế cũng đã tìm hiểu và mua sản phẩm từ hạt điều của Campuchia. Ông kỳ vọng Campuchia có thể trở thành một trong những quốc gia xuất khẩu hạt điều lớn trên thế giới, nhấn mạnh chất lượng hạt điều tốt nhưng cần nâng cao công nghệ chế biến để đáp ứng tiêu chuẩn và yêu cầu của thị trường quốc tế.

Trong năm 2023, Việt Nam xuất khẩu hạt điều với doanh thu hơn 3,6 tỷ USD và lượng 644.135 tấn, tăng mạnh 24% về lượng và 18,1% về giá so với năm trước.

Nguồn tin từ tờ Nikkei Asia cho biết, hạt điều đóng vai trò quan trọng trong xuất khẩu của Việt Nam và có tiềm năng lớn trên thị trường toàn cầu. Dữ liệu từ Tổ chức Nông lương Liên hợp quốc năm 2018 cho thấy, Việt Nam sản xuất khoảng 2,66 triệu tấn hạt điều, tăng 23% so với năm 2017. Con số này gấp 3,4 lần so với Ấn Độ, đứng ở vị trí thứ hai với sản lượng 790.000 tấn, làm cho Việt Nam trở thành “vua hạt điều” không thể phủ nhận trên thị trường thế giới.

Việt Nam, với khí hậu nhiệt đới gió mùa và đất đai mỡ, là điều kiện lý tưởng cho sự phát triển của cây điều. Nước ta đang giữ vị trí hàng đầu thế giới về sản lượng hạt điều nguyên liệu, nhờ vào đất đai phong phú và thích hợp cho cây trồng này. Trong số các tỉnh, Bình Phước được coi là “thủ phủ” của điều tại Việt Nam, chiếm hơn 50% diện tích và sản lượng của cả nước. Với hơn 152.000 ha điều và sản lượng 170.000 tấn/năm, Bình Phước là một địa điểm quan trọng đóng góp vào sự nghiệp sản xuất hạt điều vững mạnh của Việt Nam.

Nguồn: vinacas-Như Quỳnh

Chuyên mục
NÔNG NGHIỆP 360 Tin tức sự kiện

Hội nghị tổng kết và triển khai kế hoạch khuyến nông 2023-2024

Chiều ngày 4/1, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia (Thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) đã tổ chức Hội nghị Tổng kết Công tác Khuyến nông năm 2023 và Triển khai Kế hoạch năm 2024. Tham dự và chỉ đạo hội nghị là Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn – ông Trần Thanh Nam.

Dưới bức ảnh của trang web Danviet.vn, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn – ông Trần Thanh Nam đã có bài phát biểu và chỉ đạo tại Hội nghị.

hoi nghi

Trong báo cáo về kết quả hoạt động năm 2023, ông Lê Quốc Thanh, Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia (KNQG), thông tin rằng các dự án khuyến nông trung ương đã được triển khai một cách đồng bộ và mang lại hiệu quả cao trên nhiều lĩnh vực như trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp, thủy sản, và nhiều lĩnh vực khác.

Trong lĩnh vực trồng trọt và lâm nghiệp, KNQG tập trung vào việc phát triển nông nghiệp hữu cơ và mô hình tuần hoàn với 12 dự án và trên 30 mô hình. Họ cũng đặt trọng điểm vào xây dựng vùng nguyên liệu để hỗ trợ sự phát triển của ngành nghề, du lịch nông thôn, và sản phẩm OCOP với 8 dự án. Các nỗ lực còn được định hình bởi việc thúc đẩy cơ giới hóa toàn diện trong sản xuất, chế biến, và tiêu thụ nông sản với 10 dự án.

Công tác phát triển vùng nguyên liệu nông, lâm, và thủy sản chủ lực được thực hiện để đảm bảo chất lượng và kết nối với chuỗi giá trị, bao gồm cả các vùng nguyên liệu lúa gạo ở ĐBSCL, vùng nguyên liệu cây ăn quả, và vùng nguyên liệu gỗ. Ngoài ra, các dự án cũng hướng đến việc khôi phục sản xuất sau dịch bệnh, giảm nghèo ở các vùng khó khăn đặc biệt, khu vực biên giới, và thích ứng với biến đổi khí hậu.

Trong lĩnh vực chăn nuôi và thú y, đã triển khai nhiều dự án khuyến nông nhằm thúc đẩy sự phát triển của chăn nuôi tuần hoàn và hữu cơ, tuân thủ tiêu chuẩn VietGAHP để đảm bảo an toàn thực phẩm và bảo vệ môi trường. Các nỗ lực này còn hướng đến việc phát triển chăn nuôi đạt chuẩn, có chứng nhận, có khả năng truy xuất nguồn gốc, và tạo ra sản phẩm đặc trưng và bản địa. Đồng thời, xây dựng vùng nguyên liệu chăn nuôi được liên kết với phát triển ngành nghề và du lịch nông thôn.

Trong lĩnh vực thủy sản, các dự án khuyến ngư được thực hiện nhằm hỗ trợ tái cơ cấu ngành theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững. Các hoạt động này cũng nhấn mạnh việc phục vụ phát triển các vùng nguyên liệu nông, lâm, và thủy sản quan trọng của ngành. Ngoài ra, họ tập trung vào nông nghiệp tuần hoàn, hữu cơ, phòng chống thiên tai, giảm phát thải, và thích ứng với biến đổi khí hậu. Đồng thời, còn thúc đẩy liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị, tổ chức lại quá trình sản xuất và nâng cao năng lực sản xuất cho cộng đồng nông dân.

Trong việc xây dựng Tổ khuyến nông cộng đồng (KNCĐ), không chỉ có 13 tỉnh tham gia đề án thí điểm mà hiện nay trên toàn quốc đã có thêm 30 tỉnh nhận thức được tầm quan trọng và sự cần thiết của việc thành lập tổ KNCĐ trong quá trình xây dựng nông thôn mới. Các tỉnh này bao gồm Lạng Sơn, Bắc Giang, Hải Phòng, Thái Nguyên, Hà Nội, Bình Định, Bình Phước, Quảng Nam, Ninh Thuận, Vĩnh Long, Hậu Giang, Cần Thơ, Phú Thọ, Điện Biên, Yên Bái, Thái Bình và nhiều tỉnh khác, với tổng cộng khoảng 3.500 tổ được thành lập.

Đồng thời, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia (KNQG) đã đảm nhận vai trò chủ đạo trong việc xây dựng Chiến lược phát triển khuyến nông đến năm 2030, và định hình chiến lược đến năm 2050. Trong quá trình này, KNQG cũng tập trung mạnh mẽ vào các hoạt động hợp tác quốc tế và hợp tác công tư để thúc đẩy phát triển bền vững trong lĩnh vực khuyến nông.

Trong bối cảnh khó khăn của năm 2023, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, ông Trần Thanh Nam, đã đánh giá cao sự nỗ lực của Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, lưu ý rằng mặc dù gặp nhiều thách thức nhưng Trung tâm đã hiệu quả tham gia vào nhiều “mặt trận”, bao gồm sự tham gia tích cực tại Diễn đàn Festival quốc tế ngành hàng lúa gạo ở Hậu Giang và việc củng cố, kiện toàn khuyến nông cơ sở, tập trung thực hiện các dự án kinh tế tuần hoàn, hữu cơ, và các ngành nghề nông thôn.

Ông Thanh Nam cũng nhấn mạnh rằng trong năm 2024, mặc dù là một năm tiếp tục đầy khó khăn, công tác khuyến nông cần phải được đẩy mạnh toàn diện trên tất cả các lĩnh vực. Năm 2024 sẽ là thời kỳ triển khai tiêu chuẩn, quy chuẩn, mã số vùng trồng, và xây dựng vùng nguyên liệu, yêu cầu sự tích cực tham gia và đóng vai trò quan trọng của ngành khuyến nông trong quá trình này.

Ngoài ra, các quốc gia tiếp tục đặt ra các rào cản thế hệ mới như bảo vệ động vật hoang dã, tín chỉ carbon, và dinh dưỡng. Do đó, hệ thống khuyến nông quốc gia cần phải thích ứng với xu hướng mới, đối mặt với thách thức và xem đó như cơ hội. Thứ trưởng Nam nhấn mạnh, “Những lúc khó khăn, ngành nông nghiệp luôn trở thành điểm sáng, là trụ đỡ.”

Giao nhiệm vụ cho Trung tâm Khuyến nông Quốc gia trong năm 2024, Thứ trưởng Trần Thanh Nam đề xuất việc hoàn thiện “Chiến lược Khuyến nông Quốc gia giai đoạn 2030, tầm nhìn 2050”. Đồng thời, ông đề nghị củng cố, hoàn thiện và mở rộng phạm vi, chức năng nhiệm vụ của lực lượng khuyến nông cộng đồng. Trong đó, tập trung đặc biệt vào việc tham gia triển khai Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao, xây dựng các vùng nguyên liệu, chuỗi an toàn thực phẩm, nuôi trồng thủy sản, trồng trọt, sản phẩm OCOP, và các hoạt động tín dụng.

Thứ trưởng chú ý đến việc các dự án cần tích hợp lực lượng khuyến nông cộng đồng nhằm xây dựng một đội ngũ khuyến nông chuyên nghiệp. Đồng thời, ông đề xuất xây dựng cơ sở dữ liệu và số hóa hệ thống khuyến nông, hướng đến việc phát triển đề án khuyến nông điện tử. Ngoài ra, ông cũng nhấn mạnh sự cần thiết của việc hợp tác với các doanh nghiệp để đưa cán bộ khuyến nông đi học tập và tích lũy kinh nghiệm ở nước ngoài.

Nguồn: Mard.gov.vn

Chuyên mục
NÔNG NGHIỆP 360 Tin tức sự kiện

Phân tích chiến lược phát triển của startup nông nghiệp ở Indonesia

“Vẻ đẹp nằm trong mắt người nhìn: Phân tích chiến lược phát triển của các startup nông nghiệp ở Indonesia”
Bài viết này có thể giải thích cách các doanh nghiệp khởi nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp ở Indonesia đang xây dựng chiến lược phát triển của mình. Cụ thể, nó có thể bao gồm việc đánh giá cách các doanh nghiệp này đối mặt với những thách thức và cơ hội trong ngành, cũng như cách họ xây dựng mối quan hệ với các bên liên quan. “Vẻ đẹp nằm trong mắt người nhìn” có thể ám chỉ rằng giá trị và thành công của các doanh nghiệp này có thể phụ thuộc vào cách mà người ta nhìn nhận và đánh giá chúng.
hinh 19 bao cao hinh 18 bao cao hinh 17 bao cao hinh 16 bao cao hinh 15 bao cao hinh 14 bao cao hinh 13 bao cao hinh 12 bao cao hinh 11 bao cao hinh 10 bao cao hinh 9 bao cao hinh 8 bao cao hinh 7 bao cao hinh 6 bao cao hinh 5 bao cao hinh 4 bao cao hinh 3 bao cao hinh 2 bao cao hinh mot
Nguồn:
Chuyên mục
NÔNG NGHIỆP 360 Tin tức sự kiện

Chanh Nam Phi đạt kỷ lục xuất khẩu trong năm 2023/24

Theo Nam Phi: Báo cáo thường niên về cây có múi do Cơ quan Nông nghiệp nước ngoài của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ công bố gần đây, sản lượng chanh và quýt/quýt của Nam Phi dự kiến ​​sẽ tăng lần lượt 10% và 4% trong niên vụ 2023/24. Tuy nhiên, sản lượng bưởi và cam được dự đoán sẽ giảm lần lượt 5% và 1%.

chanh vang nam phi

CAM TƯƠI

Diện tích trồng cam ở Nam Phi đạt đỉnh vào mùa vụ 2020/21 và kể từ đó đã chứng kiến ​​sự sụt giảm. Dự kiến ​​diện tích sản xuất cam sẽ giảm 0,5% trong niên vụ 2023/24. Tại các vùng sản xuất chính của các tỉnh Western Cape và Limpopo, một số người trồng cam đã chuyển sang trồng quýt và quýt.

Dựa trên ước tính diện tích thu hoạch giảm 1%, sản lượng cam trong niên vụ 2023/24 dự kiến ​​sẽ giảm 1%. Nhìn chung, các vùng sản xuất cam có lượng mưa dồi dào, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tưới tiêu hiệu quả và góp phần duy trì năng suất tương đối cao trong hai vụ vừa qua.

Do đồng rand Nam Phi mất giá, thuận lợi cho xuất khẩu, cùng với lượng cam sẵn có để xuất khẩu lớn hơn, dự báo xuất khẩu cam tươi sẽ tăng 2% trong niên vụ 2023/24. Tuy nhiên, các chuyên gia trong ngành cảnh báo rằng điều kiện tại cảng Durban và Cape Town tồi tệ hơn năm ngoái, gây ra mối đe dọa tiềm tàng cho mùa vụ sắp tới.

Xuất khẩu cam tươi của Nam Phi sang Trung Quốc tăng 33% trong niên vụ 2021/22, đạt 96.892 tấn, qua đó đưa Trung Quốc trở thành thị trường nước ngoài lớn thứ ba của cam Nam Phi. Kể từ năm 2021, việc vận chuyển từ Cảng Maputo ở Mozambique đã được chứng minh là một bước đột phá đáng kể đối với ngành cam quýt Nam Phi, giúp giảm thời gian vận chuyển đến Trung Quốc và giảm chi phí. Do một phần đáng kể cam của Nam Phi được sản xuất ở phía đông bắc của đất nước, gần Cảng Maputo hơn nhiều so với Cảng Durban, khu vực trước đây đã phát triển thành cửa ngõ quan trọng để trái cây có múi của Nam Phi thâm nhập vào Châu Á và Trung Đông. thị trường. Do có nhiều thách thức phải đối mặt tại Cảng Durban, người ta dự đoán rằng tỷ lệ cam Nam Phi sẽ được xuất khẩu từ Maputo cao hơn trong mùa vụ 2023/24.

Bưởi tươi

Diện tích trồng bưởi dự kiến ​​không thay đổi đáng kể ở mức 8.450 ha trong niên vụ 2023/24, với sản lượng dự kiến ​​giảm 5%. Tuy nhiên, xuất khẩu bưởi được dự đoán sẽ tăng 6% lên 230.000 tấn.
Trong niên vụ 2021/22, Trung Quốc nổi lên là thị trường nước ngoài lớn nhất của bưởi Nam Phi, chiếm 27% tổng lượng xuất khẩu, tương đương 63.470 tấn. Hà Lan theo sát phía sau, chiếm 27% (63.408 tấn), tiếp theo là Nhật Bản ở mức 10% (22.866 tấn) và Nga ở mức 8% (19.429 tấn).

Quýt

Tốc độ tăng trưởng nhanh chóng về diện tích trồng quýt lớn, quýt nhỏ ở Nam Phi đã chậm lại, ước tính tăng 2% cho niên vụ 2023/24. So với các giống cam quýt khác, nhu cầu toàn cầu và tỷ suất lợi nhuận tương đối cao đối với quýt và quýt không hạt đã thu hút được sự quan tâm của nông dân, dẫn đến việc trồng trọt quảng canh. Tuy nhiên, ngày càng nhiều người trồng bắt đầu đặt câu hỏi liệu thị trường đã bão hòa hay chưa.
Sản lượng quýt/quả quýt trong niên vụ 2023/24 dự kiến ​​sẽ tăng 4%. Khi có nhiều cây trưởng thành hơn trong những năm tới, sản lượng dự kiến ​​sẽ tiếp tục tăng.
Niên vụ 2021/22, Nam Phi xuất khẩu 520.565 tấn quýt và quýt, tương ứng mức tăng trưởng 3%. Trong thời kỳ này, Liên minh châu u và Vương quốc Anh là thị trường nước ngoài chính, chiếm 45% tổng kim ngạch xuất khẩu. Các điểm đến đáng chú ý khác bao gồm Hoa Kỳ (10%), Nga (10%), Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất (8%) và Trung Quốc (4%).

Chanh vàng, xanh

Việc mở rộng diện tích trồng chanh xanh và vàng ở Nam Phi đã chậm lại, các vườn cây ăn quả có tuổi đời từ 5 năm tuổi trở xuống hiện chỉ chiếm 14% tổng diện tích. Trên thực tế, tổng diện tích trồng trọt dự kiến ​​sẽ giảm 4% xuống còn 16.900 ha trong niên vụ 2023/24, trong khi sản lượng được dự báo sẽ tăng 10%.
Trong khi đó, nhu cầu thị trường mạnh mẽ sẽ thúc đẩy xuất khẩu chanh của Nam Phi lên mức cao lịch sử, với mức tăng dự kiến ​​là 12% trong niên vụ 2023/24. Do Trung Quốc nới lỏng các yêu cầu xử lý lạnh vào tháng 8 năm 2021, xuất khẩu chanh tươi của Nam Phi sang Trung Quốc đạt 9.325 tấn trong niên vụ 2021/22, đánh dấu mức tăng ấn tượng 1202%. Trong 9 tháng đầu năm 2023, xuất khẩu sang Trung Quốc lên tới 10.300 tấn, tăng 16% so với cùng kỳ năm ngoái.

Nguồn: producereport.com

Chuyên mục
NÔNG NGHIỆP 360 Tin tức sự kiện

Nam Phi bước vào mùa thu hoạch nho

Hiện nay đang là mùa thu hoạch và xuất khẩu nho ở Nam bán cầu. Sản lượng nho để bàn ước tính cho niên vụ 2023/24 ở Nam Phi là 73 triệu thùng (tương đương 4,5 kg), khoảng 329.000 tấn, tăng 12% so với niên vụ 2022/23. Theo một bản tin do Ngành Nho ăn Nam Phi phát hành , 6,1 triệu thùng hoặc khoảng 27.500 tấn nho ăn đã được kiểm tra xuất khẩu tính đến tuần 48, đánh dấu mức giảm 20% so với vụ trước do mùa vụ hiện tại bắt đầu bị trì hoãn. mùa. Ba giống xuất khẩu hàng đầu bao gồm Prime không hạt, Early Sweet và Tawny Seedless.

vuon nho xanh

Tại Peru, một nhà cung cấp nho ăn quan trọng khác ở Nam bán cầu, sản lượng nho ăn cho mùa vụ 2023/24 dự kiến ​​sẽ đạt 1,18 tỷ thùng, bao gồm 61% nho trắng không hạt, 27% nho đỏ không hạt và 5% nho đen không hạt. Tính đến tuần thứ 48, 57 triệu thùng carton đã được đóng gói. Sản lượng ước tính của Chile là 1,16 tỷ thùng, với khối lượng đóng gói là 188.000 thùng tính đến tuần thứ 48.

Hiện tại, việc thu hoạch nho để bàn đang được tiến hành ở ba vùng sản xuất là các tỉnh phía Bắc, sông Orange và sông Olifants.

Khu vực các tỉnh phía Bắc tập trung xuất khẩu, có nhiều nhà nhập khẩu yêu cầu nho đỏ không hạt từ đó. Vào tuần thứ 48, các nhà sản xuất địa phương bắt đầu đóng gói nho đen không hạt. Trong tuần tiếp theo, các giống chính được đóng gói bao gồm Early Sweet, Prime Seedless và Starlight. Khu vực này được cho là đang đóng gói các giống Tawny, ARRA 33 và ARRA 29.

Vùng Orange River gần như đã hoàn thành việc đóng gói các giống Prime không hạt và giống ngọt sớm. Các khu vực Onseepkans và Blouputs hiện đang đóng gói giống Flame, trong khi nho ở khu vực Augrabies và Rooipad vẫn đang được nhuộm màu. Nhìn chung, chất lượng và kích thước nho rất tuyệt vời cho mùa này.

Tại khu vực Sông Olifants, một số cơ sở đã bắt đầu đóng gói giống Prime Không hạt từ tuần 49. Dự kiến ​​sẽ có thêm nhiều cơ sở bắt đầu đóng gói các giống Ngọt sớm và Tawny vào tuần 50, nhưng phần lớn các cơ sở sẽ bắt đầu đóng gói vào tuần 51. Thời tiết địa phương dự kiến ​​sẽ thuận lợi trong 10 ngày tới.

Vùng Berg River dự kiến ​​sẽ bắt đầu đóng gói vào tuần thứ 51, bắt đầu với các giống Starlight và Prime Seedless. Các vườn nho địa phương đang trong tình trạng tốt, nhìn chung nho có kích thước đạt yêu cầu.

Khu vực sông Hex dự kiến ​​sẽ phục hồi từ năng suất thấp của vụ trước, với sản lượng dự kiến ​​sẽ đạt mức trung bình dài hạn. Khu vực này dự kiến ​​bắt đầu đóng gói các giống Starlight và ARRA 29 vào tuần 51 và 52.

Nguồn: producereport.com

Chuyên mục
Kiến thức nông nghiệp NÔNG NGHIỆP 360 Tin tức sự kiện

Điện Biên: Hình thức “Lúa đơn giống và mở rộng cấy lúa bằng máy”

Theo Chi cục Bảo vệ Thực vật tỉnh Điện Biên, việc tích hợp tiến bộ kỹ thuật và cơ giới hóa trong quá trình sản xuất lúa đã mang lại những kết quả tích cực, như sự ổn định trong năng suất lúa, đảm bảo chất lượng sản phẩm và tăng cường lợi nhuận. Mô hình này đã chứng minh và thể hiện sự hiệu quả của chương trình ứng dụng tiến bộ kỹ thuật và cơ giới hóa trong sản xuất, hướng đến việc nâng cao giá trị sản xuất, tối ưu hóa hiệu suất kinh tế, giảm thiểu chi phí sản xuất, đồng thời phù hợp với điều kiện thực tế của các địa bàn và được nông dân chấp nhận. Đây là một mô hình linh hoạt và có khả năng mở rộng trong các chu kỳ sản xuất tiếp theo.

Mô hình nhân rộng lúa cấy bằng máy móc

Áp dụng kỹ thuật cấy bằng máy không chỉ mang lại nhiều lợi ích mà còn giải quyết một số thách thức quan trọng trong quá trình sản xuất lúa. Việc giảm lượng giống cần sử dụng, điều chỉnh mật độ chuẩn thoáng theo hàng và hạn chế tranh chấp dinh dưỡng và ánh sáng đã tạo ra môi trường thuận lợi cho quá trình chăm sóc cây lúa. Sử dụng dụng cụ làm cỏ sục bùn để tạo thông thoáng trong đất không chỉ giảm tình trạng nghẹt rễ mà còn giúp lúa đẻ nhánh tập trung, cứng cây, và tỷ lệ dảnh hữu hiệu từ 8 – 10 dảnh/khóm.
Tại các địa bàn vùng ngoài áp lực về lúa, mô hình này đã thể hiện sự giảm áp lực so với vùng lòng chảo thuộc huyện Điện Biên và thành phố. Nông dân được hỗ trợ để nắm bắt thực trạng của lúa và hiểu rõ tầm quan trọng của việc xử lý lúa trong quá trình sản xuất. Sự thay thế thuốc trừ cỏ bằng dụng cụ làm cỏ sục bùn đã mang lại hiệu quả tích cực. Áp dụng kỹ thuật cấy, việc kéo dài thời gian làm đất không chỉ giảm áp lực mùa vụ mà còn giảm tình trạng lúa ngộ độc đầu vụ. Ruộng giữ nước lâu hơn so với phương pháp gieo vãi, tạo điều kiện cho hạt cỏ dại và lúa mọc khó hơn. Cây lúa và cỏ dại nảy mầm muộn, dễ phân biệt, và tỷ lệ lúa lẫn thấp hơn 80 – 90% so với ruộng ngoài mô hình. Đây là những tiến bộ đáng kể trong quá trình sản xuất lúa, mà mô hình đã chứng minh được tính khả thi và hiệu quả.
Áp dụng các biện pháp quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) ngay từ đầu vụ, bao gồm xử lý giống, làm đất, cấy mạ non, và cấy thưa, đã mang lại nhiều ưu điểm đáng chú ý. Các đối tượng dịch hại chính như tập đoàn rầy, sâu cuốn lá nhỏ, bệnh bạc lá, và bệnh khô vằn xuất hiện muộn hơn so với phương pháp gieo vãi, và mức độ gây hại của chúng thấp hơn. Nông dân, tuân thủ nguyên tắc “4 đúng” trong việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, đã giảm số lượng sinh vật gây hại phát sinh. Sự tuân thủ này không chỉ giảm thiểu tác động tiêu cực của dịch hại mà còn duy trì cân bằng sinh học trong môi trường nông nghiệp. Đồng thời, số lần sử dụng thuốc bảo vệ thực vật giảm từ 1,5 – 3 lần, giúp hạn chế ảnh hưởng của các chất hoá học đối với môi trường và giảm chi phí sản xuất.

lua-dien-bien

Mô hình lúa đơn giống

Mô hình cánh đồng 1 giống, áp dụng đồng loạt các biện pháp kỹ thuật từ giai đoạn đầu vụ, như cấy tập trung, bón phân, điều tiết nước, và phun thuốc bảo vệ thực vật, đã mang lại nhiều lợi ích đáng kể. Sự áp dụng máy cấy trên mô hình này đã giảm tỷ lệ lúa lẫn và cỏ dại 80 – 90% so với các phương pháp truyền thống. Lúa không chỉ sinh trưởng phát triển đồng đều mà còn có tỷ lệ dảnh hữu hiệu cao, và trổ bông tập trung trên cùng cánh đồng.
Nông dân đã được hướng dẫn về các biện pháp và lưu ý cần thiết trong quá trình thu hoạch và sơ chế, nhằm đảm bảo không lẫn tạp và đáp ứng đúng yêu cầu của đơn vị thu mua.
Việc áp dụng máy cấy trên mô hình 1 giống không chỉ kiểm soát tốt sinh vật gây hại mà còn làm cho chúng xuất hiện muộn hơn và gây hại ít hơn so với các phương pháp khác. Sự tập trung của sinh vật gây hại theo lứa đã giúp triển khai các biện pháp phòng trừ đồng loạt, nâng cao hiệu quả phòng trừ.
Ngoài ra, việc kiểm soát hiệu quả việc sử dụng thuốc trừ sâu từ giai đoạn đầu vụ và phun trừ khi đạt ngưỡng nhất định đã giảm thiểu ảnh hưởng của sâu bệnh đối với năng suất cuối vụ. Đặc biệt, đối với tập đoàn rầy, mật độ của chúng giai đoạn giữa vụ đã được kiểm soát cao hơn so với ruộng gieo vãi, mà không gặp hiện tượng cháy chòm và ổ rầy như trên ruộng sử dụng phương pháp truyền thống. Đây là một bước tiến quan trọng trong quản lý dịch hại và tăng cường hiệu suất trong sản xuất nông nghiệp.

Nguồn: Mard.gov.vn

 

Chuyên mục
NÔNG NGHIỆP 360 Tin tức sự kiện

Năm 2023 – Gạo ST25 Việt Nam đạt giải nhất thế giới

Gạo ST25 của thương hiệu gạo Việt Nam (ông Cua) , đã đạt giải nhất tại Hội thi gạo ngon nhất thế giới được tổ chức lần thứ 15 tổ chức tại Philippines.

Gạo ST25, thương hiệu độc đáo của Việt Nam dưới bàn tay tài năng của ông Hồ Quang Cua, đã chinh phục tất cả vị khách mời tại Hội thi Gạo Ngon Nhất Thế Giới lần thứ 15, tổ chức tại Philippines. Trong thông báo ngày 5/12, ông Jeremy Zwinger, Giám đốc điều hành The Rice Trader, đã tuyên bố chính thức về chiến thắng quốc tế của giống gạo ST25, ghi dấu ấn không thể phủ nhận trong làng nông nghiệp và ẩm thực thế giới.

ST25, được phát triển bởi ông Hồ Quang Cua, nguyên Phó giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Sóc Trăng, không chỉ là niềm tự hào của Việt Nam mà còn là biểu tượng của sự đổi mới và sáng tạo trong ngành nông nghiệp. Sự kết hợp tài năng và kiến thức chuyên sâu của ông Cua đã đưa ST25 đến đỉnh cao của thế giới gạo.

Giải nhì thuộc về Campuchia, đánh bại nhiều đối thủ mạnh mẽ khác trên đường đua quốc tế. Còn giải ba thuộc về Ấn Độ, một đất nước giàu truyền thống và lịch sử về nông nghiệp.

Cuộc thi năm nay đã thu hút sự quan tâm của hơn 10 quốc gia và 30 mẫu gạo, là một sân chơi quốc tế cho các nhà nông và doanh nghiệp chia sẻ và thiết lập tầm vóc của họ. Chỉ có ba giống gạo xuất sắc nhất mới có cơ hội nếm phải vị ngon độc đáo của ST25. Điều đặc biệt là các đầu bếp hàng đầu thế giới đã đánh giá và chọn lựa sản phẩm mà không biết về nguồn gốc của chúng.

Trước sự kiện này, ông Nguyễn Như Cường, Cục trưởng Cục Trồng trọt thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, đã thông tin về sự tham gia tích cực của Việt Nam trong cuộc thi. Ba doanh nghiệp hàng đầu của đất nước đã gửi gạo dự thi, chứng minh sức mạnh và đa dạng của ngành nông nghiệp Việt Nam.

Chắc chắn, chiến thắng của ST25 không chỉ là niềm tự hào quốc gia mà còn là cột mốc quan trọng, chứng minh rằng nông nghiệp Việt Nam không chỉ sản xuất đủ để đáp ứng nhu cầu nội địa mà còn có thể cạnh tranh và chiến thắng ở tầm cỡ quốc tế. Điều này mở ra cánh cửa mới cho ngành nông nghiệp Việt Nam trên bản đồ thế giới, đồng thời tăng cường uy tín và giá trị của thương hiệu “Gạo ông Cua” trong lòng người tiêu dùng toàn cầu.

Trong lần đoạt giải nhất tại Hội thi Gạo Ngon Nhất Thế Giới, Việt Nam không chỉ được vinh danh với giống gạo ST25 mà còn đặc biệt khi Ban tổ chức tôn vinh toàn bộ “hạt gạo Việt.” Đây là lần thứ hai Việt Nam đạt giải cao tại sự kiện này, lần đầu tiên là năm 2019. Sự thừa nhận đồng loạt cho sản phẩm gạo Việt đã đánh dấu bước tiến quan trọng, khẳng định đẳng cấp của ngành nông nghiệp Việt Nam trên trường quốc tế.

 

anh-nhan-giai
Ông Hồ Quang Cua, một trong những đại diện có giống gạo đi dự thi- hình ảnh lên nhận giải tại Philippines. nguồn ảnh: từ trang báo

Sau chiến tích đoạt giải gạo ngon nhất thế giới năm 2019 với giống gạo ST25, ông Hồ Quang Cua, người đứng sau sự phát triển của giống gạo này, chia sẻ về quá trình nghiên cứu và cải tiến. Từ giống gạo 68-10, ông và đội ngũ nghiên cứu đã tiếp tục thanh lọc và vào năm 2021, giống gạo 72-6 đã được phát hiện.

Mặc dù không nổi bật về hình dạng, cây lúa 72-6 thấp và hơi xiên, nhưng lại ít đổ ngã và trổ sớm hơn 5 ngày so với giống 68-10. Hạt gạo của giống này cũng ngắn hơn khoảng 0,2mm và có tỷ lệ thu hồi gạo tốt hơn 0,5% so với giống 68-10. Quá trình phát triển và chọn lọc này đã góp phần quan trọng vào thành công lớn của ST25 trong cuộc thi quốc tế.

Cuộc thi Gạo Ngon Nhất Thế Giới, do The Rice Trader (Mỹ) tổ chức, là sự kiện quan trọng nhằm định hình xu hướng và hướng đi cho thị trường lúa gạo thế giới. Việt Nam đã lần đầu giành giải cao nhất năm 2019 và tiếp tục tạo nên cú sốc với giống gạo 72-6. Năm 2020, Việt Nam vẫn đứng ở vị trí thứ hai trong cuộc thi này.

Năm ngoái, Campuchia là người chiến thắng tại cuộc thi được tổ chức tại Phuket, Thái Lan, trong khi Việt Nam, Thái Lan và Lào đều có mặt trong top 4. Những thành công này không chỉ là niềm tự hào của người nông dân và nhà nghiên cứu Việt Nam mà còn là đỉnh cao của sự đổi mới và sáng tạo trong ngành nông nghiệp quốc gia.

Nguồn: vnexpress.net

Chuyên mục
Kiến thức nông nghiệp NÔNG NGHIỆP 360 Tin tức sự kiện

Lâm Đồng: Linh hoạt trong nông nghiệp – thích ứng biến đổi khí hậu

Theo góc nhìn Sở Nông nghiệp và PTNT Lâm Đồng, việc ứng dụng công nghệ 4.0 trong tình hình sản xuất nông nghiệp hiện nay phù hợp với điều kiện biến đổi khí hậu gần đây được tỉnh Lâm Đồng rất quan tâm. Tỉnh Lâm Đồng có kinh nghiệm lên đến 15 năm phát triển đối với nông nghiệp ứng dụng công nghệ hiện đại nên về mặt cơ sở vật chất hay hạ tầng sản xuất cũng như trình độ canh tác, chăn nuôi của nông dân Lâm Đồng có phần vượt trội so với mặt bằng chung của nước ta. Các doanh nghiệp, hợp tác xã, nông dân luôn sẵn sàng tiếp nhận các công nghệ tiên tiến,thông minh dễ dàng tạo sự khác biệt có lợi sản xuất, chăn nuôi và quản lý trang trại.

doi-moi-nong-nghiep

Những doanh nghiệp đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao, đặc biệt là các doanh nghiệp FDI, đã tạo điều kiện thuận lợi cho cộng đồng doanh nghiệp, hợp tác xã, và nông dân trong tỉnh. Họ mở ra cơ hội tiếp cận và áp dụng các công nghệ thông minh, thúc đẩy việc hình thành liên kết sản xuất và mở rộng thị trường.

Chính quyền địa phương cũng đã đưa ra các Đề án quan trọng để thúc đẩy phát triển nông nghiệp thông minh. UBND tỉnh đã phê duyệt và triển khai một số đề án quan trọng nhằm đẩy mạnh quá trình phát triển ở địa phương. Cụ thể, những đề án như “Xây dựng thành phố Đà Lạt trở thành thành phố thông minh,” “Thí điểm xây dựng huyện Đơn Dương đạt nông thôn mới theo mô hình ứng dụng công nghệ cao với hướng thôn minh giai đoạn 2019 – 2025,” và “Thí điểm xây dựng mô hình Làng đô thị xanh tại xã Xuân Thọ, thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng” đã chính thức được áp dụng và triển khai bởi chính quyền địa phương. Các đề án này đặt ra những mục tiêu rõ ràng và nhằm thúc đẩy sự đổi mới và tiếp cận công nghệ cao trong ngành nông nghiệp, góp phần tạo nên một cộng đồng nông dân thông minh và hiện đại.

Hiện nay, việc đổi mới và áp dụng công nghệ vào sản xuất nông nghiệp không chỉ mang lại lợi ích ngắn hạn mà còn tạo ra những thay đổi lâu dài về hiệu suất và năng suất. Sự giảm chi phí trong giao thông vận tải và truyền thông sẽ tạo ra hệ thống hậu cần và chuỗi cung ứng hiệu quả hơn, đồng thời giảm chi phí thương mại. Tất cả những cải tiến này có thể mở rộng thị trường và thúc đẩy tăng trưởng, tạo ra những cơ hội mới cho ngành nông nghiệp. Lợi ích cụ thể bao gồm lợi thế cạnh tranh của địa phương so với các khu vực khác, cũng như cơ hội để tỉnh Lâm Đồng đạt được sự nhanh chóng và tiên phong trong việc áp dụng nông nghiệp thông minh, dựa trên nền tảng công nghệ cao đã phát triển trong hơn 15 năm qua. Sự ứng dụng công nghệ mới có thể thúc đẩy năng suất lao động, tăng thu nhập và cải thiện chất lượng cuộc sống cho cộng đồng. Chuyển đổi hệ thống sản xuất, quản lý, và quản trị doanh nghiệp theo hướng Cách mạng Công nghiệp 4.0 là một khía cạnh quan trọng. Kết nối máy móc và thiết bị trong công xưởng thông qua internet, cùng với việc sử dụng cảm biến để thu thập dữ liệu, mở ra nhiều tiềm năng trong việc nâng cao quy trình sản xuất. Tỉnh ủy Lâm Đồng đã đưa ra các định hướng trong Nghị quyết số 05/NQ-TU về phát triển nông nghiệp toàn diện, bền vững và hiện đại, đặt ra mục tiêu và hướng dẫn phát triển ngành nông nghiệp thông minh. 

Tóm lại, với những thuận lợi và định hướng này, hy vọng tỉnh Lâm Đồng sẽ phát triển nhiều trang trại/doanh nghiệp nông nghiệp thông minh 4.0 trong thời gian tới, tiếp tục đưa ngành nông nghiệp vào giai đoạn mới sau sự thành công của chương trình nông nghiệp công nghệ cao.

Nguồn: Mard.gov.vn

Chuyên mục
NÔNG NGHIỆP 360 Tin tức sự kiện

Ngành dâu tằm tơ Việt Nam chuyển hướng bền vững

Tham dự Hội nghị có sự tham dự Thứ trưởng Bộ NN&PTNT- Ông Phùng Đức Tiến; tham dự Phó Chủ tịch UBND tỉnh Lâm Đồng-Ông Nguyễn Ngọc Phúc; cùng với các lãnh đạo các cục, vụ, đơn vị có trực thuộc của Bộ NN&PTNT; tham dự đại diện lãnh đạo UBND và ngành Nông nghiệp ở các tỉnh, thành nuôi trồng dâu tằm tơ trên cả nước ta.

thu-truong-phat-bieu-tai-hoi-nghi
Thứ trưởng Phùng Đức Tiến phát biểu tại hội nghị

Tại Hội nghị của Cục Chăn nuôi (Bộ NN&PTNT), báo cáo cho biết dâu tằm, một nghề truyền thống tại Việt Nam, đang phát triển nhanh chóng và đứng ở vị trí thứ 5 thế giới sau Trung Quốc, Ấn Độ, Uzbekistan và Thái Lan. Vùng Tây Nguyên là trung tâm lớn nhất với 77% diện tích trồng, trong khi các vùng khác như Đồng bằng Sông Hồng, Miền núi và Trung du, Bắc Trung bộ và Duyên hải Nam Trung bộ chiếm tỷ lệ từ 3 đến 11%.
Với giá kén vàng và kén trắng dao động từ 110.000 – 205.000 đồng/1kg, người trồng dâu nuôi tằm đang thu được thu nhập cao, lên đến gấp 2 đến 3 lần so với cây trồng khác như lúa, chè, mía. Tổng diện tích dâu tằm tăng mạnh, với tăng trưởng bình quân giai đoạn 2018-2022 là 12,15%. Sản lượng kén tằm cũng tăng đều, với tăng trưởng bình quân là 19,33%.
Mặc dù có sự gia tăng về sản lượng tơ tằm, Việt Nam vẫn phải nhập khẩu hàng nghìn tấn tơ tằm từ Nhật Bản, Trung Quốc và Uzbekistan để gia công và xuất khẩu. Thị trường ngành dâu tằm tơ Việt Nam còn đang phải đối mặt với thách thức về thiếu thông tin, đầu tư và sự đa dạng sản phẩm, đặc biệt là các sản phẩm chế biến từ dâu tằm tơ có giá trị gia tăng cao.

Toan-canh-hoi-nghi
Toàn cảnh hội nghị

Tại Hội nghị Cục Chăn nuôi (Bộ NN&PTNT), đại biểu đã nhận diện rằng ngành dâu tằm tơ ở Việt Nam đang đối mặt với nhiều hạn chế và thách thức, đặc biệt là trong quá trình sản xuất trứng tằm. Một vấn đề đáng lưu ý là sự phụ thuộc lớn vào nguồn trứng giống nhập từ Trung Quốc, khiến cho ngành chăn nuôi tằm trở nên không bền vững.

Các đại biểu đã thảo luận và đề xuất giải pháp ngắn hạn và dài hạn để xây dựng chiến lược phát triển ngành dâu tằm tơ tại Việt Nam. Đề xuất bao gồm việc tập trung vào nghiên cứu lai tạo giống dâu và tằm cao sản thế hệ mới, quy hoạch phát triển ngành trồng dâu nuôi tằm ở quy mô lớn và đầu tư vào cơ sở hạ tầng, cũng như xây dựng hệ thống tiêu chuẩn cho các sản phẩm dâu tằm.

Phát biểu chỉ đạo của Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Phùng Đức Tiến tại Hội nghị nhấn mạnh rằng, mặc dù ngành dâu tằm tơ Việt Nam đã phải đối mặt với ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 và hậu quả của nó, nhưng vẫn có sự tăng trưởng. Ông nhấn mạnh sự quan trọng của việc rà soát lại các khâu để đánh giá chính xác thực trạng, khó khăn, và hạn chế, và đề xuất hướng phát triển mạng và ổn định hơn.

Thứ trưởng Phùng Đức Tiến cũng đề xuất việc kết nối ngành dâu tằm tơ Việt Nam chặt chẽ với thị trường thế giới, mở rộng hơn nữa. Ông đề nghị các đơn vị tập trung vào việc xây dựng đề án chiến lược phát triển ngành, tổ chức nghiên cứu và phát triển giống, quản lý khoa học công nghệ, và tăng cường công tác nghiên cứu sản xuất trứng giống tằm để giảm phụ thuộc vào nguồn ngoại.

Nguồn: Mard.gov.vn