Chuyên mục
Giá cả thị trường NÔNG NGHIỆP 360 Tin tức sự kiện

Giá sầu riêng Musang King Việt Nam chạm mức thấp kỷ lục.

Theo báo cáo của các phương tiện truyền thông Việt Nam, giá sầu riêng Musang King gần đây đã giảm mạnh tới 70% so với năm ngoái, chủ yếu do chất lượng giảm sút. Giá hiện tại của loại sầu riêng này là 80.000 đồng mỗi kilogram, đánh dấu mức thấp lịch sử.

Một nông dân tại tỉnh Đắk Lắk, thuộc khu vực Tây Nguyên, cho biết giá Musang King hiện tại đã giảm dưới mức giá của sầu riêng Monthong chất lượng cao. Sầu riêng Musang King từ Việt Nam trong những năm gần đây rất được săn đón, đạt giá 250.000-300.000 đồng mỗi kilogram khi bán buôn. Trong khi đó, giá bán lẻ thường vượt quá 500.000-700.000 đồng mỗi kilogram. Tuy nhiên, năm nay, sự giảm sút quan tâm từ các thương lái đã khiến giá giảm xuống chỉ còn 100.000 đồng mỗi kilogram.

Sản lượng sầu riêng Monthong phụ thuộc vào tuổi của cây, với mức sản xuất trung bình từ 10-20 tấn mỗi hecta. Trái lại, cây sầu riêng Musang King chỉ cho một nửa số lượng đó, với trái hiếm khi vượt quá 1,5 kilogram, làm cho chúng khó bán với giá cao.

Để phản ứng mạnh mẽ với tình hình thị trường này, một nông dân từ tỉnh Tiền Giang miền Nam được cho là đã chặt hạ 200 cây sầu riêng Musang King đã trồng được sáu năm, gây ra tổng số lỗ hỏng 6 tỷ đồng (244.000 đô la Mỹ). Theo nông dân, việc trồng sầu riêng Musang King ít phù hợp với điều kiện địa phương, dẫn đến sản lượng thấp và chất lượng trái không tốt. Năm nay, sầu riêng Musang King của nông dân này chỉ bán được với giá 80.000 đồng mỗi kilogram.

Trồng sầu riêng tại Việt Nam tập trung chủ yếu ở khu vực miền Nam và Tây Nguyên. Thú vị là giá sầu riêng Kanyao đã tăng từ cuối tháng Mười. Vào ngày 22 tháng Mười, sầu riêng Kanyao loại Ri6 được bán với giá từ 83.000-93.000 đồng ($3,38-3,78) mỗi kilogram, trong khi sầu riêng Kanyao thông thường có giá từ 75.000-80.000 đồng ($3,05-3,25) mỗi kilogram. Giá mua sầu riêng Monthong chọn lọc đạt từ 87.000-93.000 đồng ($3,54-3,78) mỗi kilogram, trong khi sầu riêng Monthong thông thường được bán với giá từ 76.000-82.000 đồng ($3,09-3,34) mỗi kilogram.

Các chuyên gia trong ngành cho biết rằng sầu riêng Musang King được trồng tại Việt Nam có chất lượng thấp hơn so với đối thủ Malaysia, làm cho việc đề xuất giá cao trở nên khó khăn. Đặng Mạnh Khuông, một thương gia tại thành phố Cần Thơ miền Nam, nhấn mạnh rằng giá sầu riêng Musang King đã trải qua một sự giảm mạnh mặc dù cung ứng đã giảm. Musang King, một lúc được xem là loại sầu riêng tốt nhất thế giới, hiện đang gặp khó khăn trong việc cạnh tranh với các loại khác về cả giá và sản lượng, ít nhất là tại Việt Nam.

Nguồn: Producereport

Chuyên mục
Giá cả thị trường Hạt ( tiêu, điều, mắc ca ... ) NÔNG NGHIỆP 360 XUẤT NHẬP KHẨU

Hạt điều Việt Nam: Kỷ lục xuất khẩu mới vào tháng 8/2023

Theo thông tin từ Cục Xuất nhập khẩu thuộc Bộ Công Thương, số thống kê từ Tổng cục Hải quan cho biết rằng vào tháng 8/2023, ngành xuất khẩu hạt điều của Việt Nam đã tiếp tục thiết lập một kỷ lục mới.

Tổng lượng xuất khẩu hạt điều trong tháng này đạt 60,58 tấn tấn, với tổng giá trị tăng lên 333,83 triệu USD. Đây là một thành tích đáng cân nhắc, khi lượng xuất khẩu tăng 10,8% và giá trị tăng 9,7% so với tháng trước, và tăng lần xem 29,2% về lượng và 21,8% về giá trị so với Cùng kỳ năm trước (tháng 8/2022).

Trong 8 tháng đầu năm 2023, xuất khẩu hạt điều của Việt Nam đã đạt gần 395,6 tấn tấn, với giá trị tăng lên tới 2,28 tỷ USD. Đây là mức tăng 15,5% về lượng và 11,3% về giá trị so với cùng kỳ năm trước. 

Tính chung 8 tháng đầu năm 2023, hạt điều xuất khẩu chuyên ngành của Việt Nam đã ghi nhận những biểu tượng số ấn. Tổng lượng xuất khẩu hạt điều trong khoảng thời gian này đạt gần 395,6 tấn tấn và tổng giá trị đạt khoảng 2,28 tỷ USD. Điều đáng chú ý, lượng xuất khẩu tăng 15,5% và giá trị tăng 11,3% so với cùng kỳ năm trước.

 

Biểu đo thế hiển điện biên gia xuất khẩu khẩu bình quan hat dieu của Việt Nam qua các tháng trong giai doan 2021-2023 (DVT: USD/tân).
Biểu đồ thể hiện diễn biến giá xuất khẩu bình quân hạt điều của Việt Nam qua các tháng trong giai đoạn 2021-2023 (ĐVT: USD/tấn).

Trong tháng 8/2023, giá xuất khẩu trung bình của hạt điều Việt Nam đã đạt mức 5.510 USD/tấn, có một sự giảm nhẹ 1% so với tháng 7/2023 và giảm 5,7% so với tháng 8/2022. Tính tổng quan trong 8 tháng đầu năm 2023, giá xuất khẩu trung bình của hạt điều Việt Nam đạt mức 5.760 USD/tấn, giảm 3,6% so với cùng kỳ năm 2022.

Ngoài ra, tháng 8/2023 cũng chứng kiến sự gia tăng trong xuất khẩu hạt điều đến nhiều thị trường quan trọng và có tiềm năng, điểm đáng chú ý là xuất khẩu hạt điều đến thị trường Các Tiểu vương quốc Ả rập Thống nhất và Ả rập Xê út đã tăng trưởng đến mức có hai chữ số. Điều này thể hiện sự đa dạng hóa và mở rộng của thị trường xuất khẩu hạt điều của Việt Nam.

Hinh anh bieu do the hien 10 thi truong xuat khau hat dieu lon nhat cua Viet Nam trong thang 8 va 8 thang dau nam 2023 (Nguon: Tinh toan tu so lieu cua Tong cuc Hai quan).
Hình ảnh biểu đồ thể hiện 10 thị trường xuất khẩu hạt điều lớn nhất của Việt Nam trong tháng 8 và 8 tháng đầu năm 2023 (Nguồn: Tính toán từ số liệu của Tổng cục Hải quan).

Tính tổng cộng 8 tháng đầu năm 2023, ngành xuất khẩu hạt điều của Việt Nam đã ghi nhận sự tăng trưởng tích cực trên các thị trường chủ lực. Đặc biệt, xuất khẩu hạt điều sang các thị trường như Trung Quốc, Đức, Anh, Các Tiểu vương quốc Ả rập Thống nhất và Ả rập Xê út đã đạt con số cao so với cùng kỳ năm ngoái. Điều này là một tin vui cho ngành xuất khẩu hạt điều của Việt Nam và thể hiện sự đa dạng hóa và mở rộng thị trường.

Tuy nhiên, ngành này vẫn gặp nhiều khó khăn. Đặc biệt, các nhà sản xuất hạt điều chỉnh vẫn phải thuộc 50 đến 60% vào nguyên liệu nhập khẩu. Để cải thiện tình hình này, việc cải thiện và nâng cao sản phẩm chất lượng và chất lượng của cây điều Việt Nam là một trong những khâu then chốt. Cuối cùng, điều quan trọng nhất đã đặt mục tiêu xuất khẩu cao hơn 3,1 tỷ USD và để đạt được mục tiêu này, việc cải thiện sản xuất hạt điều trong nước sẽ đóng vai trò quan trọng.

Nguồn: Vinacas 

Chuyên mục
Giá cả thị trường Giá cả thị trường NÔNG NGHIỆP 360 Nông sản chế biến TIN NÔNG NGHIỆP Tin tức Xuất nhập khẩu XUẤT NHẬP KHẨU

Nông nghiệp vẫn là nồng cốt chóng đỡ nền kinh tế.

(02/09/2023) Trong 8 tháng gần đây, nông nghiệp đã thể hiện sự mạnh mẽ của mình trong bối cảnh khó khăn về thị trường và biến đổi khí hậu, với sự hỗ trợ của doanh nghiệp và cộng đồng nông dân trên khắp cả nước.

Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT), ngành này đã ghi nhận một thặng dư trong cán cân thương mại lên đến hơn 6,7 tỷ USD, tăng 6,4% so với cùng kỳ năm trước. Nông nghiệp vẫn duy trì vai trò quan trọng trong nền kinh tế, đồng thời đảm bảo an ninh lương thực và tăng cường xuất khẩu.

Cụ thể, vùng ĐBSCL đã nhanh chóng mở rộng diện tích canh tác lúa Thu Đông lên 700.000 ha để đáp ứng nhu cầu xuất khẩu. Sự tăng giá lúa đã mang lại động lực cho các nông dân để tập trung vào chất lượng sản phẩm.

Nganh nong nghiep tiep tuc dong vai tro quan trong lam tru do cho nen kinh te, dong thoi dam bao dong thoi hai muc tieu chinh: an ninh luong thuc va xuat khau.
Ngành nông nghiệp tiếp tục đóng vai trò quan trọng làm trụ đỡ cho nền kinh tế, đồng thời đảm bảo đồng thời hai mục tiêu chính: an ninh lương thực và xuất khẩu.

Sự ổn định trong nước đã làm cho việc tăng cường xuất khẩu trở nên hiệu quả hơn. Trong 8 tháng qua, kim ngạch xuất khẩu nông, lâm và thủy sản đã vượt qua con số 33 tỷ USD. Các mặt hàng như rau quả, lúa gạo, hạt điều và sản phẩm chăn nuôi đã thể hiện sự phát triển mạnh mẽ.

Đáng chú ý, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam đã tiếp tục tăng lên mức cao nhất thế giới, đạt khoảng 628 – 643 USD/tấn, trong khi sầu riêng Việt Nam là mặt hàng độc quyền. Điều này sẽ tạo ra đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế.

Trong bối cảnh xung đột chính trị và biến đổi khí hậu toàn cầu, ít quốc gia có khả năng cung ứng đủ lương thực cho nhu cầu nội địa và xuất khẩu như Việt Nam. Do đó, ngoài lợi ích quốc gia, Việt Nam còn đảm nhận trách nhiệm xã hội bằng việc chia sẻ lương thực với các quốc gia khác, trong bối cảnh có hơn 700 triệu người đang phải đối mặt với nạn đói do biến đổi khí hậu.

Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu nông, lâm và thủy sản trong tám tháng đầu năm 2023 được ước tính đạt 59,69 tỷ USD, với kim ngạch xuất khẩu 33,21 tỷ USD và nhập khẩu 26,48 tỷ USD, tạo ra thặng dư 6,72 tỷ USD.

Về xuất khẩu, trong tháng 8 kim ngạch xuất khẩu dự kiến đạt 4,36 tỷ USD, giảm 6,5% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, xuất khẩu nông sản tăng 11,5%( 2,16 tỷ USD), chăn nuôi tăng 24% ( 50 triệu USD), trong khi xuất khẩu thủy sản giảm 24% (750 triệu USD) và lâm sản giảm 21,5% ( 1,19 tỷ USD). Đầu vào sản xuất tăng 13,3% ( 207 triệu USD).

Trong tám tháng đầu năm, mặc dù một số mặt hàng xuất khẩu chính giảm giá trị so với cùng kỳ năm trước, tổng kim ngạch xuất khẩu trong dự tính 33,21 tỷ USD, giảm đi 9,5%. Cụ thể, xuất khẩu thuỷ sản giảm 25,4% (5,68 tỷ USD), lâm sản giảm 25,1% (8,95 tỷ USD), và đầu vào sản xuất giảm 21,9% (1,32 tỷ USD). Tuy nhiên, một số mặt hàng như nông sản đã tăng giá trị xuất khẩu lên 16,9 tỷ USD, tăng 11,5%, trong đó nổi bật là mặt hàng rau quả với 3,45 tỷ USD, tăng 57,5%, gạo với 3,17 tỷ USD, tăng 36,1%, hạt điều với 2,23 tỷ USD, tăng 8,9%, và cà phê với 2,94 tỷ USD, tăng 2,3%. Sản phẩm chăn nuôi cũng tăng 26,1% lên 325 triệu USD.

Nguồn: Vinacas

Chuyên mục
Báo cáo chính sách Giá cả thị trường Giá cả thị trường NÔNG NGHIỆP 360 Nông sản chế biến TIN NÔNG NGHIỆP Tin tức Xuất nhập khẩu XUẤT NHẬP KHẨU

Giá Gạo Tăng 10% Sau Lệnh Cấm Xuất Khẩu Của Ấn Độ theo FAO

Theo Tổ chức Nông Lương Liên Hợp Quốc (FAO), chỉ số giá hàng hóa lương thực thực phẩm đã bắt đầu giảm trong tháng 8, đặc biệt đối với các mặt hàng quan trọng như gạo và đường.

gao vn

Chỉ số giá lương thực FAO trong tháng 8 đạt trung bình 121,4 điểm, giảm 2,1% so với tháng 7 và thấp hơn đến 24% so với mức đỉnh của nó vào tháng 3/2022.

Dầu thực vật sau khi tăng mạnh vào tháng 7 với 12,1% thì tháng 8 lại có sự đối ngược với mức tăng trưởng đó là giảm đi 3,1%. Giá dầu hướng dương giảm gần 8% do nhu cầu nhập khẩu trên toàn cầu giảm sút và có nguồn cung dồi dào từ các nhà xuất khẩu lớn. Giá dầu đậu nành giảm do cải thện điều kiện trồng đậu tương tại Mỹ, trong khi giá dầu cọ giảm nhẹ do sản lượng tăng theo mùa ở các quốc gia sản xuất hàng đầu ở Đông Nam Á.

Giá ngũ cốc giảm nhẹ 0,7% so với tháng 7. Giá lúa mì giảm 3,8% do nguồn cung dồi dào từ một số nhà xuất khẩu hàng đầu và giá ngũ cốc thô giảm 3,4% do nguồn cung ngô trên toàn cầu dồi dào do thu hoạch kỷ lục tại Brazil và sự chuẩn bị cho mùa thu hoạch ở Mỹ.

Trái lại, Chỉ số giá gạo đã tăng 9,8% so với tháng 7, đạt mức cao nhất trong 15 năm sau khi Ấn Độ, là quốc gia xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới, áp đặt lệnh cấm xuất khẩu loại gạo Indica. Sự không chắc chắn về thời hạn của lệnh cấm và những lo ngại về hạn chế xuất khẩu đã khiến các tham gia trong chuỗi cung ứng phải giữ lại hàng hóa, thảo luận lại hợp đồng hoặc tạm dừng việc chào bán, đặc biệt đối với giao dịch với lượng hàng nhỏ và các hợp đồng đã ký trước đó.

Chỉ số giá sữa giảm 4,0% so với tháng 7, chủ yếu là do giá sữa bột nguyên kem giảm với nguồn cung dồi dào từ Châu Đại Dương. Giá bơ và phô mai cũng giảm, một phần do hoạt động giao dịch thụ động trong mùa nghỉ hè ở châu Âu.

Chỉ số giá thịt giảm 3,0%, trong đó giá thịt cừu giảm mạnh nhất, chủ yếu là do tăng nguồn cung xuất khẩu từ Australia và nhu cầu từ Trung Quốc giảm yếu. Nguồn cung dồi dào cũng khiến giá thịt lợn, thịt gia cầm và thịt bò giảm.

Chỉ số giá đường của FAO tăng 1,3% so với tháng 7 và trong tháng 8 đã cao hơn 34,1% so với cùng kỳ năm trước. Sự tăng này chủ yếu được gây ra bởi lo ngại ngày càng gia tăng về tác động của hiện tượng El Niño đối với cây mía, tháng 8 ở Thái Lan có ít mưa hơn bình thường và tình hình khô hạn sẽ kéo dài.Việc thu hoạch mía lớn ở Brazil đang diễn ra đã hạn chế áp lực tăng giá đường toàn cầu, cũng như giá ethanol thấp hơn và sự suy yếu của đồng tiền Brazil (Đồng Real).

Nguồn: CTTDT – BNNPTNT

Chuyên mục
Giá cả thị trường NÔNG NGHIỆP 360 TIN NÔNG NGHIỆP Tin tức Tin tức sự kiện Trái cây XUẤT NHẬP KHẨU

Thách Thức Xuất Khẩu Nông Sản và Bảo Vệ Môi Trường

Xuất khẩu nông sản của Việt Nam đang đối mặt với một loạt thách thức quan trọng, đặc biệt là trong bối cảnh các quy định về phát triển bền vững và bảo vệ môi trường đang trở thành xu hướng không thể tránh được các thị trường xuất khẩu chính của nước.

trien lam 2

Mặc dù đã đạt được những thành tựu tích cực trong việc xuất khẩu nông sản, tình hình không khỏi đối diện với nhiều khó khăn. Bà Nguyễn Thảo Hiền, Phó Vụ trưởng Vụ Thị trường châu Âu – châu Mỹ (Bộ Công Thương), cụ thể trong buổi hội thảo Sự kiện “Đưa nông sản và thực phẩm chế biến của Việt Nam vào hệ thống phân phối quốc tế” diễn ra vào ngày 14/9 đã thảo luận về sự gia tăng đáng kể trong kim ngạch xuất khẩu nông sản, thủy sản và thực phẩm trong vài năm gần đây. Tổng kim ngạch xuất khẩu đã đạt khoảng 53,2 tỷ USD vào năm 2022, tăng khoảng 10% so với năm 2021.

THÁCH THỨC ĐÁP ỨNG CÁC TIÊU CHÍ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG

Tuy nhiên, năm 2023 dù phải đối mặt với nhiều khó khăn bao gồm cả tình hình lạm phát gia tăng ở các thị trường xuất khẩu chủ lực, Việt Nam vẫn ​​vượt qua ngưỡng 50 tỷ USD trong kim ngạch xuất khẩu nông sản, thủy sản và thực phẩm. Việt Nam hiện nay đứng trong top 3 nhà cung ứng lớn nhất thế giới về cà phê, hạt điều, hạt tiêu và lớn thứ ba về gạo.

Bà Hiền cho rằng, dù có những thành tựu đáng kể, ngành nông sản của Việt Nam đang đối diện với những thách thức quan trọng. Cụ thể, quy định về phát triển bền vững và bảo vệ môi trường đang trở nên ngày càng quan trọng tại hầu hết các thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam. Các quốc gia không chỉ đang điều chỉnh khung pháp lý của họ liên quan đến phát triển bền vững và bảo vệ môi trường mà còn đang tạo ra những cam kết mạnh mẽ tại các hội nghị quốc tế về biến đổi khí hậu như COP26 và COP27.

trien lam quoc te

Đặc biệt, EU đã dẫn đầu trong việc ban hành các quy định nghiêm ngặt như Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM) và Quy định chống suy thoái rừng (EUDR). Những quy định này bắt buộc các nhà nhập khẩu vào EU phải báo cáo lượng khí nhà kính phát thải từ hàng hóa của họ và nếu vi phạm, họ sẽ bị phạt.

Mỹ, Canada cũng đang xem xét áp dụng các biện pháp tương tự CBAM và EUDR của EU. EU cũng đã nêu rõ rằng các nhóm hàng hóa thuộc phạm vi của CBAM và EUDR sẽ được mở rộng trong tương lai.

Tổng hợp lại, quy định về bảo vệ môi trường đang trở nên ngày càng nghiêm ngặt tại các thị trường xuất khẩu quan trọng của Việt Nam như EU, North America (Bắc Mỹ) và các thị trường phía Đông Bắc của châu Á. Điều này đòi hỏi sự nỗ lực đáng kể từ phía các doanh nghiệp nông sản nếu muốn duy trì vị trí của họ trên những thị trường này.

CẦN XANH TỪ SẢN XUẤT, CANH TÁC 

Để đáp ứng yêu cầu của thị trường và duy trì sự phát triển trong tương lai, việc thực hiện chuyển đổi hướng tới sự bền vững và áp dụng mô hình kinh tế tuần hoàn là một xu hướng không thể tránh. Hiện tượng này đang tạo ra một cơ hội mới trong thương mại và đầu tư toàn cầu.

Bên cạnh chất lượng sản phẩm và giá trị, khách hàng ngày càng quan tâm đến việc các doanh nghiệp có đang tuân thủ các yêu cầu cao từ phía khách hàng, bao gồm cả việc giảm phát thải, thực hiện quy trình sản xuất sạch, thúc đẩy kinh tế tuần hoàn và thúc đẩy sự phát triển bền vững.

Theo ông Trần Minh Thắng, đại diện Thương vụ Việt Nam tại Hoa Kỳ, việc tuân thủ các quy định về an toàn thực phẩm là một điều kiện tiên quyết để sản phẩm nông sản và trái cây có thể thâm nhập vào thị trường Hoa Kỳ. Điều này đòi hỏi các giai đoạn từ canh tác đến thu hoạch phải tuân theo các quy định và tiêu chuẩn của thị trường nhập khẩu.

Ngoài ra, cần thiết phải cải thiện công nghệ bảo quản sau thu hoạch, đảm bảo tính nhất quán trong quy trình sơ chế, đóng gói, lưu trữ và vận chuyển, để đảm bảo điều kiện nhiệt độ và độ ẩm lý tưởng cho sản phẩm nông sản.

Ông Lê Thanh Hòa, Phó Cục trưởng Cục Chất lượng chế biến và phát triển thị trường, kiêm Giám đốc Văn phòng SPS Việt Nam nhấn mạnh rằng việc phát triển bền vững trong chuỗi cung ứng nông sản và đảm bảo an toàn thực phẩm là vô cùng quan trọng trong ngành này. Doanh nghiệp cần phải thực hiện chuyển đổi để đáp ứng những yêu cầu này.

Bên cạnh vai trò của doanh nghiệp, Nhà nước cũng cần hoàn thiện thể chế chính sách pháp luật và xây dựng tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật phù hợp với thực tế và quy chuẩn quốc tế. Điều này bao gồm việc đầu tư nguồn lực, tạo cơ chế để đào tạo quản lý, giám sát, hướng dẫn và hỗ trợ đảm bảo chất lượng, an toàn thực phẩm trong các giai đoạn từ sản xuất, thu hoạch, bảo quản, chế biến, đến kết nối với thị trường nội địa và quốc tế.

Ngoài ra, cần phải cập nhật quy định và thông tin phân tích thị trường và nắm bắt sự thay đổi trong sở thích của người tiêu dùng để phát triển sản phẩm phù hợp. Đồng thời, triển khai các đề án phát triển nguồn nguyên liệu, cải thiện hệ thống logistics theo chuỗi cung ứng nông sản, giảm tổn thất sau thu hoạch và nâng cao chất lượng sản phẩm nông lâm thủy sản. Ngoài ra, cần tạo điều kiện để doanh nghiệp và người dân có thể tiếp cận với công nghệ, chuyển đổi số và kênh tiếp thị kỹ thuật số để kết nối với thị trường và người tiêu dùng.

Nguồn: Vinacas

Chuyên mục
Báo cáo chính sách Giá cả thị trường Giá cả thị trường NÔNG NGHIỆP 360 TIN NÔNG NGHIỆP Trái cây Uncategorized Xuất nhập khẩu XUẤT NHẬP KHẨU

Ngành cam quýt của Zimbabwe tăng cường xuất khẩu sang Trung Quốc

Vào ngày 1 tháng 6, Tổng cục Hải quan Trung Quốc đã công bố danh sách các vườn cây có múi và nhà đóng gói của Zimbabwe được phép xuất khẩu sang Trung Quốc . Danh sách này bao gồm 11 vườn cây ăn quả và 6 cơ sở đóng gói. Theo Giám đốc điều hành của Hội đồng Phát triển Làm vườn Zimbabwe, Linda Nielsen, xuất khẩu cam quýt sang Trung Quốc có thể bắt đầu sớm nhất là vào cuối tháng 6. Bà cho biết: “Mùa vụ sẽ bắt đầu trong vòng hai tuần tới”, đồng thời cho biết thêm rằng quy mô của lô hàng ban đầu sẽ phụ thuộc vào số lượng đơn đặt hàng nhận được từ người mua Trung Quốc.

Để đảm bảo lô hàng đầu tiên được vận chuyển suôn sẻ, hội đồng hiện đang làm việc với các trang trại và cơ sở đóng gói đã được GACC công nhận để đảm bảo tuân thủ các quy định của Trung Quốc.

Do tính chất không giáp biển của Zimbabwe, GACC cũng đã công bố các điều kiện đối với các chuyến hàng cam quýt của Zimbabwe qua các nước thứ ba . Các lô hàng sẽ chỉ được phép rời khỏi nhà đóng gói sau khi kiểm tra trước khi khởi hành và Bộ Đất đai, Nông nghiệp, Thủy sản, Nước và Phát triển Nông thôn của Zimbabwe được yêu cầu lấy mẫu 2% trên mỗi lô trái cây xuất khẩu sang Trung Quốc. Nếu không tìm thấy vấn đề kiểm dịch thực vật trong vòng hai năm đầu tiên, tỷ lệ lấy mẫu có thể giảm xuống 1%.

Xử lý lạnh, là biện pháp phòng ngừa bắt buộc để tránh lây truyền côn trùng gây hại, có thể được áp dụng khi lô hàng đang quá cảnh, kể cả tại các cảng ở nước thứ ba, nhưng phải được Bộ hoặc một trong các đơn vị được Bộ phê duyệt giám sát. Zimbabwe được cho là đang xem xét vận chuyển những lô hàng cam quýt đầu tiên sang Trung Quốc qua Cảng Durban ở Nam Phi, đồng thời tiến hành vận chuyển thử nghiệm tới các thị trường ở Trung Đông và Viễn Đông qua Cảng Beira ở Mozambique. Tuy nhiên, do tình trạng tắc nghẽn giao thông tại Durban năm ngoái, các chuyến hàng cam quýt dành cho Trung Quốc có thể sẽ được chuyển sang Beira trong tương lai. Theo thông báo của GACC, thời hạn hiệu lực của đợt kiểm tra trước khi khởi hành của Bộ được giới hạn trong 30 ngày.

Những thông báo gần đây của GACC được đưa ra gần một năm sau khi Zimbabwe và Trung Quốc hoàn tất quy trình xuất khẩu cam quýt và 8 năm sau khi quy trình này được bắt đầu vào năm 2015 . Hiện tại, Zimbabwe có khoảng 4.000 ha đất dành riêng cho việc trồng cây có múi, mặc dù con số này có thể sẽ tăng lên trong tương lai nhờ khả năng tiếp cận mới vào thị trường Trung Quốc sinh lợi. Năm 2022, Zimbabwe đã xuất khẩu 57.283 tấn cam quýt sang Singapore, Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất, Malaysia, Hồng Kông, Hà Lan, Anh và Zambia.

Theo Nielsen, Hội đồng Phát triển Làm vườn hiện đang làm việc với Viện Dịch vụ Kiểm dịch Thực vật của Zimbabwe để đảm bảo khả năng tiếp cận thị trường Trung Quốc cho quả việt quất, bơ và ớt.

Nguồn: Produce Report

Chuyên mục
Báo cáo chính sách Giá cả thị trường Giá cả thị trường NÔNG NGHIỆP 360 TIN NÔNG NGHIỆP Tin tức Xuất nhập khẩu

Nông sản Việt đạt nhiều kỷ lục về giá và sản lượng xuất khẩu trong năm 2023.

Thị trường xuất khẩu thời gian gần đây đã hồi phục, kéo theo việc đơn hàng gia tăng trở lại khi nguồn cung khan hiếm. Đây là yếu tố giúp cà phê và hạt điều của Việt Nam hưởng lợi, lập kỷ lục về giá và lượng xuất khẩu.

Số liệu thống kê tháng 8/2023 của Tổng cục Hải quan cho thấy Việt Nam xuất khẩu được 221.270 tấn sắn và các sản phẩm từ sắn, trị giá 103,26 triệu USD. Bình quân giá xuất khẩu sắn và các sản phẩm từ sắn ở mức 466,7 USD/tấn, giảm 5,7% so với tháng 7/2023 và giảm 0,4% so với cùng kỳ.

Hiện Trung Quốc vẫn là thị trường xuất khẩu sắn và các sản phẩm từ sắn hàng đầu của Việt Nam, chiếm 95,91% về tổng lượng sắn xuất khẩu khi đạt 212.230 tấn, trị giá 98,04 triệu USD, tăng 56,1% về lượng và tăng 47,2% về trị giá so với tháng trước đó.

thu hoach ca phe tai vuon

Sau 8 tháng đầu năm, xuất khẩu sắn và các sản phẩm từ sắn của Việt Nam sang Trung Quốc đạt 1,69 triệu tấn, trị giá 687,24 triệu USD, giảm 13,4% về lượng và giảm 19,9% về trị giá so với cùng kỳ.

Theo dự báo của Cục Xuất nhập khẩu, các nhà nhập khẩu có nhu cầu mua sắn và tinh bột sắn vẫn cao bởi các quốc gia đẩy mạnh dự trữ lương thực và ngũ cốc cho tiêu dùng cũng như sản xuất thức ăn chăn nuôi.

Theo thông tin từ Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương), giá xuất khẩu bình quân cà phê của Việt Nam trong tháng 8/2023 đạt mức cao kỷ lục 3.054 USD/tấn, tăng 8% so với tháng 7/2023 và tăng 29,7% so với cùng kỳ. Lũy kế 8 tháng, giá xuất khẩu bình quân cà phê của Việt Nam đạt mức 2.463 USD/tấn, tăng 8,9% so với cùng kỳ. Qua đó, mặt hàng chủ lực tiếp tục bứt phá. Giá cà phê hiện đang ghi nhận ở mức cao nhất trong 3 thập kỷ qua.

Đặc biệt, EU là thị trường cà phê lớn nhất của nước ta khi đã tăng nhập khẩu mặt hàng này trong nửa đầu năm, tăng 21% và 18,1% lần lượt về lượng và trị giá so với cùng kỳ, đạt gần 390.000 tấn, trị giá 854,2 triệu EUR (tương đương 914,1 triệu USD). Trong tổng lượng nhập khẩu của EU từ thị trường ngoại khối, thị phần cà phê của Việt Nam tăng từ 20,9% trong nửa đầu năm 2022 lên mức 27,5% trong nửa đầu năm 2023.

Xuất khẩu hạt điều của Việt Nam tháng 8/2023 tiếp tục đạt mức cao kỷ lục mới trên 60.500 tấn với trị giá 333,8 triệu USD, tăng 10,8% và 9,7% tương ứng về lượng và trị giá so với tháng trước, và tăng 29,2% về lượng và tăng 21,8% về trị giá so với tháng 8.

van chuyen khoai

Xuất khẩu đã bắt đầu phục hồi, dẫn đến sự gia tăng của đơn đặt hàng, đặc biệt trong bối cảnh nguồn cung ngày càng khan hiếm. Điều này đã đánh dấu một giai đoạn thị trường xuất khẩu đầy thú vị, với hạt điều và cà phê của Việt Nam đạt được những thành tựu ấn tượng về cả giá và lượng xuất khẩu.

Sơ bộ theo số liệu từ Tổng cục Hải quan, Việt Nam đã xuất khẩu tổng cộng 4,24 triệu tấn gạo, thu về 2,26 tỷ USD trong nửa đầu năm. Số liệu này tăng 21,3% về lượng và 32,2% về giá trị so với cùng kỳ. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cũng đã công bố rằng trong 8 tháng đầu năm, Việt Nam đã xuất khẩu gần 5,9 triệu tấn gạo, tăng 22% so với cùng kỳ, với kim ngạch xuất khẩu đạt 3,17 tỷ USD, tăng 36,1% so với cùng kỳ. Philippines, Trung Quốc, và Indonesia là những quốc gia chấp nhận nhiều nhất gạo Việt. Dự kiến xuất khẩu gạo cả năm nay sẽ đạt trên 4 tỷ USD.

Tuy nhiên, thị trường gạo toàn cầu dự kiến sẽ đối mặt với những thách thức trong năm 2023. Điều này là do giá gạo xuất khẩu trên toàn thế giới đã tăng mạnh đồng loạt, đôi khi lên đến gần 650 USD/tấn. Điều này đã ảnh hưởng đến hoạt động giao thương, khi các doanh nghiệp và đối tác nhập khẩu đã hạn chế việc ký kết các hợp đồng mới.

Ngoài ra, ngành điều của Việt Nam cũng đặt mục tiêu xuất khẩu 3,1 tỷ USD trong năm nay. Tuy nhiên, ngành này vẫn đối mặt với nhiều thách thức, đặc biệt là việc phụ thuộc lớn vào nguyên liệu nhập khẩu. Để cải thiện tình hình này, cần tập trung vào việc cải tạo, nâng cao sản lượng và chất lượng cây điều Việt Nam.

doanh nghiep chu trong san xuat

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã đưa ra nhiều chương trình hỗ trợ để khuyến khích nông dân chuyển sang mô hình sản xuất cà phê chất lượng cao, đặc biệt là cà phê đặc sản. Điều này giúp nông dân và hợp tác xã có thể thu lời cao và cải thiện giá trị thương hiệu của cà phê Tây Nguyên.

Các cơ quan chức năng cũng sẽ tiếp tục theo dõi và điều chỉnh tình hình nguồn cung và giá cả các sản phẩm nông sản quan trọng. Việc này giúp tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu thủy sản và nông sản, đồng thời thúc đẩy phát triển thị trường tiêu thụ nội địa và quốc tế, đặc biệt là các thị trường Mỹ, Trung Quốc, EU và Liên minh kinh tế Á – Thái Bình Dương. Sử dụng các Hiệp định Thương mại tự do (FTA), như CPTPP và EVFTA, cũng sẽ là một phần quan trọng trong việc thúc đẩy xuất khẩu các sản phẩm nông lâm thủy sản của Việt Nam và giúp doanh nghiệp thực hiện các đơn hàng mới.

Nguồn: Vinacas

Chuyên mục
Giá cả thị trường Giá cả thị trường NÔNG NGHIỆP 360 TIN NÔNG NGHIỆP Tin tức Tin tức sự kiện

Măng Cụt Và Dứa Trở Nên Phổ Biến Trên Thị Trường Trung Quốc

Trong những năm gần đây, Viện Khoa học Nông nghiệp Nhiệt đới Trung Quốc tại Sanya đã tích cực cố gắng đa dạng hóa các loại trái cây nhiệt đới và phát triển các giống mới. Tuần trước, viện đã trồng 700 cây con “măng cụt dứa” tại cơ sở trồng trọt ở Quận Yazhou.

Loại măng cụt dứa này, có tên chính thức là Tainong số 23, nổi bật là một trong những giống mới được lai tạo gần đây tại Hải Nam. Khi cắt mở, trái cây tỏ ra có mùi hương măng cụt mạnh mẽ, đúng với cái tên của nó, và lớp thịt vàng ngon và mềm mại.

Giống mới này đã thể hiện khả năng thích ứng đáng kể tại Sanya và tương đối dễ trồng và chăm sóc. Tại làng Nashou gần đó, đã trồng khoảng 3,3 hecta măng cụt dứa. Kể từ khi ra mắt thị trường vào tháng 4, loại dứa này đã nhận được phản hồi tích cực từ người tiêu dùng, với các lựa chọn loại hạng cao có giá cả tại cửa nông trang lên đến 10 nhân dân tệ Trung Quốc (1,37 đô la Mỹ) mỗi kilogram.

Ngoài hương vị đặc biệt, măng cụt dứa được phân biệt bởi sự hiện có hạn chế. Hiện tại, chúng được trồng chủ yếu tại tỉnh Hải Nam và vẫn còn là một sự hiếm có trên thị trường. Trong những năm gần đây, Sanya đã liên tục giới thiệu các giống trái cây nhiệt đới mới và cao cấp từ các vùng có cùng vĩ độ. Cơ sở trồng trọt ở Yazhou hiện nay có bộ sưu tập hơn 170 loại trái cây nhiệt đới từ cùng một vĩ độ.

Nguồn: Produce Report

Chuyên mục
Giá cả thị trường NÔNG NGHIỆP 360

Hồng New Zealand: Chất Lượng, Đánh Bại Thời Tiết.

Mùa hồng New Zealand vừa mới bắt đầu. Sau một loạt các biến cố thời tiết không thuận lợi, bao gồm siêu bão Gabrielle, đã tấn công các vườn hồng ở Đảo Bắc vào đầu năm nay, ngành công nghiệp đang cố gắng cung cấp ước tính mùa vụ chính xác cho năm 2023.

Theo Ian Turk, quản lý nhóm sản phẩm tại Hội đồng Ngành Hồng New Zealand, mặc dù các vườn hồng hầu hết tránh được thiệt hại cơ cấu hoặc lũ lụt, nhưng khối lượng của mùa vụ năm nay đã bị ảnh hưởng. Năm 2023, ngành này dự kiến ​​sẽ xuất khẩu khoảng 1.000 tấn hồng tươi đến các thị trường khác nhau, bao gồm Úc, Đông Nam Á, Nhật Bản, Hoa Kỳ và Trung Quốc. Trong những năm trước đó, lượng gửi hàng hàng năm của đất nước này trung bình là 1.200 tấn hồng.

“Mặc dù có sự giảm sản xuất này, chất lượng và hương vị của trái cây trong năm nay rất tốt với rất nhiều hồng  to, ngon và đang đợi để đưa vào thị trường,” Turk nói. Theo ông, hồng Fuyu, loại hồng chính được xuất khẩu của New Zealand, được tìm kiếm ở các thị trường nước ngoài vì đặc điểm độc đáo của chúng – mặc dù rất giòn nhưng trông không chín, trái cây rất ngọt và không gây cảm giác “miệng khô”.

Hồng New Zealand đã được chấp nhận chính thức vào thị trường Trung Quốc vào năm 2015, và loạt trái cây đầu tiên được gửi đi hai năm sau sau khi được kiểm tra bởi các quan chức Trung Quốc. Theo Ian Albers, giám đốc điều hành của công ty xuất khẩu First Fresh có trụ sở tại Gisborne, vào thời điểm đó, ngành công nghiệp đang thử nghiệm để tìm hiểu về sở thích của thị trường mới. Khối lượng xuất khẩu sau đó tăng lên 15 tấn vào năm 2018, 19 tấn vào năm 2019 và 45 tấn vào năm 2020, chiếm 1-2% tổng lượng xuất khẩu hồng của đất nước, theo Cơ quan Xuất khẩu Nông nghiệp New Zealand. Các năm tiếp theo đặc trưng bởi sự phức tạp và không chắc chắn về việc tiếp cận thị trường Trung Quốc trong thời kỳ đại dịch. Vào năm ngoái, First Fresh đã quyết định không gửi bất kỳ trái cây hồng nào sang Trung Quốc, trích dẫn các thách thức liên quan đến đại dịch cũng như quy định nghiêm ngặt yêu cầu trái cây phải trải qua xử lý lạnh trong vòng tới 35 ngày trước khi vận chuyển.

Hiện nay, có bốn địa điểm sản xuất và hai nhà điều hành cơ sở đóng gói, lưu trữ lạnh và cơ sở xử lý lạnh đã đăng ký để xuất khẩu hồng sang Trung Quốc, theo Bộ Nông nghiệp chính trị New Zealand. Cơ quan Xuất khẩu Nông nghiệp xem xét Trung Quốc là thị trường mới có tiềm năng. “Khối lượng xuất khẩu vẫn còn nhỏ trong khi ngành công nghiệp làm quen với các yêu cầu của chương trình,” trang web của cơ quan nói, lưu ý rằng dự kiến ​​khối lượng xuất khẩu sẽ tăng ổn định trong những năm tới với sự tham gia của nhiều người xuất khẩu hơn.

Nguồn: Produce Report

Chuyên mục
Giá cả thị trường Giá cả thị trường NÔNG NGHIỆP 360 TIN NÔNG NGHIỆP Tin tức Trái cây Xuất nhập khẩu XUẤT NHẬP KHẨU

Xuất khẩu cam quýt của Nam Phi sang Trung Quốc giảm trong mùa này

Theo Neil Wan từ Topsun Fresh, một công ty nhập khẩu cam vào Trung Quốc, xuất khẩu cam của Nam Phi sang châu Âu đã tăng đáng kể cùng với sự tăng giá tương ứng. Tuy nhiên, hiệu suất của quả bưởi Nam Phi trên thị trường Trung Quốc đã không được tốt và giá cả đã giảm xuống dưới mức mong muốn. Các nhà buôn trái cây Trung Quốc sẵn lòng trả giá cao cho cam navel cao cấp, đặc biệt là các loại Witkrans và Cambria. Trong khi đó, giá cam Valencia đã duy trì ổn định ở mức 140-180 nhân dân tệ Trung Quốc (19,42-24,96 đô la Mỹ) cho mỗi hộp, tùy thuộc vào loại và hình dáng. Mặc dù số lượng quả quýt/tắc Nam Phi xuất khẩu sang Trung Quốc trong mùa này tăng 30%, nhưng giá cả đã giảm.

Ngay từ đầu mùa này, Hội Nông sản cam Nam Phi dự đoán lượng xuất khẩu cam cho mùa này sẽ khoảng 142 triệu hộp, giảm 13,9%. Khi mùa tiến triển, lượng xuất khẩu dự kiến đã được điều chỉnh lên 156 triệu hộp do tăng sản lượng cam navel.

Tuy nhiên, xuất khẩu cam của Nam Phi sang Trung Quốc trong mùa này đã giảm 40% so với năm ngoái. Nguyên nhân chính dẫn đến sự giảm này là nhu cầu mạnh mẽ từ thị trường châu Âu, đã rõ ràng từ đầu mùa. Tổng cộng, xuất khẩu cam Nam Phi sang châu Âu đã tăng khoảng 50%. Tuy nhiên, do mưa lớn ở giai đoạn cuối mùa, nhiều vườn cam đã bị ảnh hưởng bởi bệnh đốm đen. Dự kiến rằng lượng cam trong giai đoạn cuối mùa sẽ được chuyển sang Trung Đông và một số thị trường châu Á.

Về thị trường Trung Quốc, Wan bổ sung rằng điều kiện thời tiết bất lợi gần đây ở miền bắc Trung Quốc đã ảnh hưởng đến việc tiêu dùng. Tuy nhiên, tổng hiệu suất thị trường của cam nhập khẩu đang cho thấy dấu hiệu cải thiện. Người tiêu dùng Trung Quốc tiếp tục thể hiện sự sẵn lòng trả giá cao cho các loại trái cây chất lượng cao hoặc các loại mới lạ, với bao bì đẹp thường tăng cường sức hấp dẫn của chúng.

Nguồn: Produce Report