Categories
Trồng trọt

Thông Tin Dự Án JICA-SNRM

KẾT NỐI SẢN XUẤT VÀ TIÊU THỤ NẤM SHIITAKE TƯƠI SẠCH 100%

HỖ TRỢ SINH KẾ BỀN VỮNG CHO ĐỒNG BÀO
KHU VỰC DỰ ÁN JICA-SNRM, LÂM ĐỒNG

 

Nấm Shiitake bản địa là một món quà quý giá mà mẹ thiên nhiên đã ban tặng cho khu sinh quyển Lang Biang.

Trong một chuyến thu mẫu vào mùa mưa năm 2008, trên con đường dẫn lên đỉnh Lang Biang, đỉnh núi cao nhất trong khu dự trữ sinh quyển Lang Biang, Tiến Sĩ Trương Bình Nguyên và các cộng sự đã có cơ duyên đã phát hiện ra một món tuyệt vời nhất mà thiên nhiên ban tặng cho vùng này: loài nấm Shiitake bản địa đã sinh sôi và phát triển hoàn hảo để thích nghi với điều kiện khí hậu của địa phương.

Thông qua một loạt các nghiên cứu, các nhà khoa học đã xác định được loài, đặc điểm và nhân giống thành công nấm Shiitake địa phương. Sau đó, các phương pháp nhân giống đã được áp dụng cho sản xuất hàng loạt để đáp ứng nhu cầu của thị trường cao cấp.

 

Với câu chuyện về nguồn gốc bản địa, nấm Shiitake vùng Lang Biang đã được lựa chọn là sản phẩm đặc trưng để phát triển sinh kế bền vững, thân thiện môi trường cho nông dân dân tộc thiểu số thuộc khu vực mục tiêu của dự án Quản lý tài nguyên thiên nhiên bền vững JICA-SNRM. Sự thành công của mô hình là kết quả của mối quan hệ hợp tác chặt chẽ giữa 3 bên:, Dự án Hỗ trợ Kỹ Thuật Quản lý Tài Nguyên Thiên Nhiên Bền Vững JICA SNRM, Công ty tư nhân và các hộ nông dân tiềm năng muốn phát triển nghề trồng nấm Shiitake.

 

Những lợi ích cho các bên hợp tác:
– Nông dân có được một nghề mang lại thu nhập cao và ổn định, với khối lượng lao động ít, phương pháp trồng nấm hoàn toàn sạch, không hoá chất, vì thế không có tổn hại cho sức khoẻ, và không gây ô nhiễm nguồn nước trong khu vực;
– Doanhn ghiệp giảm bớt áp lực về vận hành và những rủi ro để đảm bảo việc sản xuất nấm ổn định với nông dân thông qua sự hợp tác với dự án JICA SNRM, vì dự án luôn hỗ trợ các hoạt động đào tạo, cải tiến trong quá trình trồng nấm;
– Dự Án JICA SNRM hỗ trợ nông dân địa phương nghề trồng nấm như một lựa chọn sinh kế bền vững, hiệu quả và thân thiện môi trường nhằm giảm bớt áp lực phụ thuộc lên tài nguyên thiên nhiên từ rừng.

Yếu tố then chốt cho thành công của phương pháp trồng nấm Shiitake là sự quan sát theo dõi thường xuyên và tỉ mỉ trong thao tác vận hành. Những chỉ số quan trọng bao gồm nhiệt độ, độ ẩm và ánh sáng quyết định năng suất và chất lượng nấm phải luôn được kiểm soát cẩn thận.

 

Mỗi cây nấm lớn trọn vẹn được thu hoạch là là kết quả của sự yêu thương, chăm chút và cải tiến liên tục, đó là niềm vui lan toả từ người nông dân, đến công ty, đến dự án và quan trọng hơn hết là đến người tiêu dùng.

Categories
Trồng trọt

Trên Quýt Thơm Trĩu Cành, Dưới Thả Gà Ta, Lão Nông Thu Nửa Tỷ/Năm

Những ngày này, vườn quýt của ông Đặng Văn Lương thôn Hồng Phong 4, xã Chiến Thắng, huyện Bắc Sơn, Lạng Sơn luôn tất nập xe chở quýt và đoàn tham quan tại vườn. Nhờ có kỹ thuật chăm sóc vườn quýt kết hợp với chăn thả gà ta dưới gốc, gia đình ông Lương thu gần nửa tỷ/năm.

Quýt vàng Bắc Sơn là giống cây ăn quả bản địa. Cây ưa ánh sáng tán xạ, độ ẩm vừa phải, sinh trưởng tốt trong khe núi, thung lũng. Nổi tiếng bởi màu vàng của nắng, vị ngọt của núi, hương thơm của gió rừng tạo cho quýt Bắc Sơn có một hương vị đặc biệt thơm ngon được người tiêu dùng ưa chuộng. Hiện tại quýt đang bước vào giai đoạn chín nhất, từ xa xa nhìn lại đã thấy màu vàng nổi bật của những chùm quýt căng mọng sáng cả một vạt rừng.

Ông Lương cho biết: Quýt vàng là giống quýt đặc sản tại đây. Ngày xưa các cụ cho rằng giống quýt này chỉ có trồng trong lân, khe núi ở độ cao 400 – 500m thì cây mới phát triển và cho quả mỗi năm. Nhưng ông đã quyết định trồng thử trên đất ở bìa rừng, vẫn là đất rừng nhưng không phải leo lên núi đá, xe máy, ô tô vào tới nơi, dễ dàng trong khâu vận chuyển và chăm sóc. “Cây quýt vàng rất phù hợp với thổ nhưỡng ở đây, trồng quýt không khó, chỉ cần người chăm sóc áp dụng theo đúng quy trình tổng hợp từ khâu làm đất, chọn giống, ngừa bệnh, bảo đảm đủ lượng nước, phân bón cần thiết. Khi cây nuôi quả phải tưới đủ nước hàng ngày. Muốn cây tiếp tục cho năng suất cao ở các vụ sau, thu hoạch xong phải vệ sinh vườn, bón phân và cắt tỉa cành già, cành sâu bệnh để tập trung dinh dưỡng cho cây, giúp cây phục hồi” – ông Lương dãi bày.

Ông Đặng Văn Lương bên vườn quýt sai trĩu quả của gia đình.

Năm 2000 với diện tích đất gia đình có, vợ chồng ông bắt tay vào di chuyển quýt từ rừng về gần nhà trồng. Ban đầu là vài trăm gốc rồi từ đó ông mở rộng dần dần. Toàn bộ vườn nhà ông đều được bón bằng phân chuồng, rác mùn và một số loại phân hữu cơ nên vườn quýt của gia đình lúc nào lá cũng xanh mướt. Ông Lương cho rằng, quan trọng nhất trong canh tác cam, quýt là phòng bệnh và sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật đúng cách. Ông thường xuyên thăm vườn, cắt tỉa cành thông thoáng, phát hiện sớm những biểu hiện của sâu bệnh để có cách chữa trị phù hợp. Để cây phát triển tốt, ông Lương sử dụng phân bón hợp lý, kết hợp phân vi sinh với phân chuồng. Khi cây cho quả rộ, ông làm hệ thống giàn đỡ để cành không bị gãy. Được chăm bón đúng cách, quýt có vị ngọt đậm, được người tiêu dùng ưu chuộng.

Có được thành quả như ngày hôm nay, vợ chồng ông cũng đã phải trải qua những khó khăn, canh tác trên đất khá cằn, đất đá có độ dốc khá lớn nên ông đã cải tạo đất đá thành đất màu mỡ. Theo kinh nghiệm nhiều năm có được ông chia sẻ: “Không nên cuốc xới dưới gốc quýt vì rễ cây ăn lên bề mặt rất dễ bị đứt, chỉ nên phát cỏ và phải giữ độ ẩm cho cây. Bởi vậy muốn phát triển vườn quýt thì phải giữ được rừng”.

Hiện tại vườn quýt nhà ông có hơn 1000 gốc cho quả. Năm nay vườn quýt nhà ông không sai đều như năm ngoái. “Năm ngoái sai nhiều, năng suất cao nên năm nay cần nuôi cây, nuôi cành. Năm nào cũng bắt nó sai quả thì quá sức quá” ông Lương dí dỏm.

Đỉnh điểm nhất gia đình ông thu được 30 tấn/vụ, khách hàng chủ yếu là thương lái quen hàng năm trong tỉnh cũng như các tỉnh Thái Nguyên, Hà Nội….Hiện tại gia đình ông đang bán 30.000/kg đối với những quả to đều và đẹp mã, còn những quả kích thước nhỏ hơn thì giá dao động từ 20.000 – 25.000/kg. Trung bình một vụ quýt gia đình ông thu 400 triệu/vụ/năm.

Ngoài ra tại vườn quýt của gia đình ông Lương còn kết hợp chăn thả giống gà bản địa. “Thả gà dưới gốc vừa để cải thiện bữa ăn gia đình, vừa có thêm thu nhập, đồng thời gà thả dưới gốc giúp xới đất làm hạn chế cỏ mọc và cung cấp phân cho cây. Nhờ vậy mỗi năm gia đình ông cũng có thêm 20 – 30 triệu từ chăn nuôi gà thả vườn.

Thấy gia đình ông Lương thành công trong việc đưa cây quýt từ lân về gần nhà trồng nhiều gia đình tại địa phương cũng học tập và hiện nay cũng có vườn quýt cho thu nhập cao mỗi năm.

Theo Chang Liễu (Dân Việt)

Categories
HỎI ĐÁP NGHỀ NÔNG Thuỷ hải sản Trồng trọt

Trồng Lúa Kết Hợp Nuôi Tôm Càng Xanh Cho Lợi Nhuận 75 Triệu Đồng/Ha

Trung tâm Khuyến nông tỉnh Đồng Tháp cho biết, trong thời gian qua, mô hình nuôi luân canh tôm càng xanh kết hợp trồng lúa (1 vụ lúa – 1 vụ tôm) đã được nông dân trong tỉnh Đồng Tháp áp dụng khá thành công.

Mô hình này đã cho lợi nhuận 75 triệu đồng/ha đã được 13 hộ dân thực hiện trên diện tích 20 ha tại 3 huyện Tam Nông, Cao Lãnh và Lấp Vò tỉnh Đồng Tháp.

Nhằm tăng năng suất và chất lượng sản phẩm, năm 2017 từ dự án Khuyến nông Trung ương “Xây dựng mô hình nuôi tôm càng xanh toàn đực trên vùng đất chuyển đổi”. Khi tham gia mô hình, nông dân được dự án hỗ trợ không hoàn lại 50% giá con giống tôm, 100% giống lúa, 30% thức ăn và phân bón.

Sau 7 tháng thực hiện mô hình, kết quả năng suất tôm đạt 1.250 kg/ha với giá bán bình quân 180.000 đồng/kg (trọng lượng thu hoạch là 20 con/kg) và sau khi trừ chi phí, lợi nhuận thu được 75 triệu/ha. Năng suất lúa thu hoạch đạt 3,5 tấn /ha và lợi nhuận bình quân trồng lúa khoảng 9 triệu đồng/ha. So với các hộ làm lúa trong vùng thì lợi nhuận hộ thực hiện mô hình cao hơn khoảng 2 triệu đồng/ha.

Thực tế cho thấy, việc trồng lúa trên đất nuôi tôm không xảy ra “xung đột” trong quá trình sản xuất. Sau khi nuôi một vụ tôm, nông dân sẽ trồng một vụ lúa và khi đó, những chất thải hữu cơ dưới đáy ao sau khi thu hoạch tôm sẽ làm cho ruộng lúa màu mỡ. Người trồng lúa chỉ bón một lượng phân nhỏ là đáp ứng nhu cầu phát triển của cây, áp dụng quy trình canh tác 1 phải 5 giảm làm cho chi phí sản xuất lúa giảm.

Bên cạnh đó, để tránh ảnh hưởng đến tôm nuôi, nông dân áp dụng các biện pháp phòng bệnh tổng hợp, ít sử dụng thuốc bảo vệ thực vật (giảm 70-80%). Ngược lại, nuôi tôm sau vụ lúa thì nền đáy ao đã được khoáng hóa, nên các chất độc hại giảm, cắt mầm bệnh trong ao nuôi, môi trường ổn định, khi nuôi tôm hạn chế sử dụng thuốc, hóa chất, hạn chế chi phí sản xuất.

Mô hình sản xuất tôm của ông Hồ Hoàng Vũ ở xã Vĩnh Thạnh, huyện Lấp Vò sản xuất trên 12 triệu con tôm giống và sau khi trừ chi phí ông lãi hơn 500 triệu đồng.

Nông dân thực hiện mô hình ở 3 huyện đều đánh giá rất cao mô hình canh tác tôm – lúa, thích ứng với điều kiện tự nhiên địa phương, tạo ra sản phẩm sạch, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, phù hợp với sản xuất nông nghiệp (GAP).

Ngoài ra, mô hình này giải quyết được vấn đề ô nhiễm nguồn nước, lão hóa vùng nuôi tôm, giảm thiểu rủi ro dịch bệnh, đề xuất nhân rộng mô hình áp dụng rộng rãi trong toàn tỉnh. Hiện nay, diện tích nuôi tôm ở Đồng Tháp là hơn 708 ha, đã thu hoạch hơn 722 tấn.

Nguyễn Văn Trí (TTXVN)

Categories
Trồng trọt

Tản Mạn Hồng Treo Gió Ở Cầu Đất, Đà Lạt

Đà lạt đã vào thu, từng cơn gió miên man thổi căng tràn khắp các vùng đồi và thung lũng. Những con đường dã quỳ đã bắt đầu vàng rực theo bước chân người len lỏi vào những rẫy cà phê đang chuẩn bị cho những tháng cuối đón chờ mùa thu hoạch. Phía lưng chừng đồi, những bóng cây lêu khêu với những cành khô trụi lá cũng bắt đầu lấm tấm những sắc vàng xen lẫn đỏ. Mùa hồng* cũng đến rồi, những quả hồng đầu tiên đã chuyển đỏ. Và đó cũng chính dấu hiệu mùa chim chóc từ khắp nơi trở về Đà Lạt, ríu rít chuyền cành thưởng thức những quả ngọt đầu tiên kết tinh từ đất lành ban tặng.

Hồng treo gió Đà Lạt

Ở xa xa, cách trung tâm Đà Lạt khoảng hai mươi lăm cây số, một thị trấn nhỏ ở độ cao 1600m cũng đang trở nên tất bật. Những người nông dân ở Cầu Đất lại tất tả cho mùa vụ hồng mới trong nỗi mừng lo xen lẫn. Trong thần thoại Hy Lạp, những trái hồng chín được ví như những viên rubi đỏ mộng treo lủng lẳng trên cành, đó là biểu tượng của thứ hoa quả của thần linh. Thế mà có những lúc thứ trái cây ngon lành ấy giá chỉ còn ba, bốn nghìn một kí, người dân bỏ hoang không hái. Một màu đỏ buồn hắt hiu trải khắp thung lũng, sườn đồi. Giữa tiếng chim hót ríu rít, tươi vui là nước mắt người nông dân chan chứa.

hồng treo gió cầu đất

TẢN MẠN HỒNG TREO GIÓ CẦU ĐẤT, ĐÀ LẠT

Cách đây năm, sáu năm trước, một nhóm nông dân Đà Lạt hiền hòa hăm hở sang Nhật để học và nhận chuyển giao công nghệ làm hồng truyền thống của người Nhật từ chương trình hợp tác Việt Nhật do tổ chức Jica tài trợ. Và từ đó tới nay, nghề làm Hồng treo gió bắt đầu, đánh dấu cho một bước chuyển mình mới, làm phong phú và tăng thêm giá trị cho kho tàng đặc sản ngon lành của mảnh đất đặc biệt này.Những trái hồng trứng hay hồng vuông đồng được tuyển chọn kĩ, vì đây là những loại hồng thích hợp nhất, trái vừa đủ độ chín sau đó qua các công đoạn gọt, sấy , treo gió, mát xa và hông gần một tháng mới trở thành món Hồng treo gió ngon tuyệt hảo. Thực kì lạ, những trái hồng vàng ươm căng mộng mới treo lên đôi lúc còn rất chát** nhưng đến khi thành phẩm, vị chát đó mất hẳn thay vào đó là một vị ngọt rất đặc trưng.

Hồng treo gió Đà Lạt

Có lẽ Đà Lạt nói chung và Cầu Đất nói riêng việc làm Hồng treo gió có phần phức tạp và khó khăn hơn so với nhiều nơi khác trên thế giới. Bởi vì Cầu Đất ‘ lên sương mù, xuống mù sương’  và cũng bởi vì những cơn mưa thường xuyên bất chợt làm độ ẩm ở đây luôn rất cao nên việc những mẻ hồng đang gần thu hoạch lại phải đổ bỏ vì nấm mốc là điều thường thấy. Đặc biệt ở các hộ dân làm nhỏ lẻ những nơi không đủ điều kiện để đầu tư nhà màng đảm bảo và điều chỉnh được nhiệt độ, độ ẩm cũng như xử lí mốc trong không khí trong quá trình làm hồng treo gió***.Thế mới biết nghề làm hồng treo gió Cầu Đất không phải dễ dàng gì mà cũng lắm gian truân. Năm, sáu kí tươi mới được một kí Hồng treo gió nếu thuận lợi, còn đôi khi cả mùa cũng không lãi được bao nhiêu. Nhưng thành quả lại là những sản vật tuyệt phẩm làm lay động biết bao nhiêu con người sành ăn.

Hồng treo gió vỏ dai nhưng thật là mềm mại, từng trái hồng co lại màu hổ phách xé ra bên trong ứa từng giọt mật quyến rũ, mang trong mình một vị ngọt thanh cao ăn mãi không biết chán. Vị ngọt đó cứ luyến lưu mãi trong vòng họng, nhẹ nhàng tan chảy như thức tỉnh mọi giác quan. Hồng treo được bảo quản lạnh, để càng lâu màu sắc càng biến chuyển, những lớp phấn trắng bắt đầu xuất hiện đôi lúc nhiều người lầm tưởng là nấm mốc nhưng thực ra đó chính là những lớp phấn đường tự nhiên bên trong trái hồng kết tinh lại rồi hiện lên như lớp áo trắng tinh khôi, thuần khiết. Đối với nhiều người thì đây mới chính là thời điểm ngon nhất của Hồng treo gió.

Hồng treo gió Đà Lạt

Nghề làm Hồng treo gió kì thực đã có lịch sử rất lâu đời, thậm chí cả nghìn năm tuổi. Ở Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc hay Việt Nam tuy phương pháp làm có sự khác biệt đôi chút do tính chất thổ nhưỡng, điều kiện công nghệ cũng như các giống hồng bản địa khác nhau nhưng tựu chung giống nhau ở điểm đó là Hồng treo gió chính là sản vật tuyệt hảo kết tinh từ đất lành chất chứa bao tình cảm, tâm huyết của những con người làm ra nó.

Hồng treo gió Đà Lạt

Nhấp một ngụm trà, nhâm nhi một trái hồng giữa tiết trời se lạnh khi dịp Tết đến Xuân về, đôi lúc chỉ muốn cảm giác này cứ kéo dài ra thêm mãi.

Tìm hiểu thêm về sản phẩm được đội ngũ Foodmap khảo sát:

Hồng Treo Gió – Túi 250Gram

Hồng Treo Gió – Hộp Đặc Biệt 250Gram

Hồng Treo Gió – Hộp Đặc Biệt 500Gram

Viết bởi: Tùng Phạm từ FOODMAP TEAM

(*) Hồng là cây họ thị lưỡng tính, tiếng Anh là persimmon hay Sharon fruit, tiếng Nhật là kaki (柿) và có nhiều loại. Khoảng tháng năm cây ra hoa rồi kết quả, đến mùa thu thì bắt đầu chín, sắc chuyển sang đỏ dần. Cây hồng có nhiều lợi ích, ở Nhật người ta lấy lá sắc uống thay trà, gỗ thì làm đồ gia dụng, quả thì ăn sống hoặc sấy khô. Quả hồng tươi rất nhiều vitamin A và C.

(**) Quả hồng sống chát là do chứa nhiều chất tannin nên còn được dùng làm thuốc chống mốc. Chất tanin sẽ chuyển thành đường khi quả chín nên quả càng chát thì sẽ càng ngọt về sau.

(***) Do có nhiều nguy cơ bị nấm mốc nên người dân thường rất hay ‘xông’ lưu huỳnh để loại bỏ nấm mốc. Về phương pháp làm thì không có gì sai vì ở Nhật quy trình làm vẫn có thể xông lưu huỳnh hữu cơ để diệt nấm mốc, đây cũng là cách làm phổ biến để lưu trữ các loại dược liệu và thảo mộc trên thế giới với liều lượng cho phép ( Lưu huỳnh hữu cơ vẫn nằm trong danh mục các chất trong tiêu chuẩn Organic USDA của Mỹ cho phép với liều lượng hợp lí ) nhưng thực tế nhiều người lạm dụng quá mức và thậm chí dùng lưu huỳnh vô cơ. Đây là điều có thật và cũng là sự việc đáng buồn.

 

 

Categories
HỎI ĐÁP NGHỀ NÔNG Những sự thật thú vị Trồng trọt

Bơ 034 – Giống Bơ Siêu Dài, Siêu Khủng

BƠ 034 – GIỐNG BƠ SIÊU DÀI, SIÊU KHỦNG

Trong thời gian gần đây, trên thị trường đang xuất hiện một giống bơ mới, thu hút tương đối nhiều sự quan tâm của bà con nông dân trồng bơ nhờ vào những ưu điểm vượt trội mà các giống bơ khác không có, đó chính là giống bơ 034. Thế bơ 034 có những đặc điểm gì? Mời bà con mình cùng đọc qua những thông tin mà FoodMap đã tổng hợp để biết thêm về giống bơ 034 này nhé!

Bơ 034 là bơ gì?

Bơ 034 là giống bơ sáp chín muộn, được các kỹ sư và người nông dân đánh giá là giống bơ mang lại hiệu quả kinh tế cao và thích ứng với điều kiện khí hậu ở nước ta. Hiện tại, giống bơ này đang được nhân giống tại sở nông nghiệp tỉnh Lâm Đồng và xuất hiện chủ yếu ở khu vực Tây Nguyên.

Nhận thấy giống bơ này là giống trái mùa, chất lượng và năng suất ổn định, lại phù hợp trồng xen canh với cây cà phê nên người nông dân đã nhân giống để trồng trên diện tích lớn hơn. Thế hệ sau khi nhân giống cho ra đời những quả bơ có chất lượng tương tự như cây bơ mẹ nên giống bơ này ngày càng được nhân giống rộng rãi để cung cấp giống ra thị trường.

Hình dạng bên ngoài của giống bơ 034 nhìn khá thuận mắt, khi chín vỏ màu xanh bóng, dáng thuôn, có thể đạt độ dài từ 30 đến 40 cm. Cân nặng của quả khoảng từ 300g đến 800g, thịt quả chiếm tỉ lệ khá cao, từ 75% đến 82% cân nặng quả, có độ dẻo và mùi thơm đặc trưng, vị ngọt béo ngậy khó lẫn với các loại bơ khác nên được đánh giá là giống bơ thơm dẻo vào loại I trong các giống bơ trái mùa.

bơ 034

Giống bơ này ra hoa kết trái quanh năm và thời điểm thu hoạch quả từ tháng 9 đến tháng 12 dương lịch hàng năm.

Bơ 034 có khả năng thích ứng tốt với hệ sinh thái của nhiều vùng miền khác nhau trên cả nước. Đặc biệt, với điều kiện khí hậu ở vùng Tây Nguyên thì giống bơ này phát triển rất mạnh khỏe, mang lại chất lượng cao và năng suất ổn định nên có thể nói đây là một giống bơ ưa khí hậu lạnh. Đồng thời, giống bơ này rất thuận lợi cho việc trồng xen canh với cây cà phê, tiện cho việc chăm sóc và thu hoạch. Thời điểm giống bơ 034 cho quả thì trên thị trường lại khan hiếm bơ nên thường thì bà con sẽ bán được giá thành cao.

giống bơ 034

Là một giống bơ có năng suất cao, nên hiện nay diện tích canh tác bơ 034 ngày một mở rộng. Chính vì điều đó, rất nhiều nguồn tin trái chiều đã xuất hiện về việc canh tác giống bơ này thế nào cho hiệu quả nhất.

Sau đây là một vài lưu ý để bà con nông dân canh tác giống bơ được hiệu quả:

Bo 034 là một giống cần nước, nhưng nếu nước quá nhiều sẽ làm bơ bị thối rễ và gây chết cây. Vì thế, khi canh tác giống bơ 034 ở những vùng đất trũng, bà con nên lên luống cao 0,5 đến 0,7 mét để tránh hiện tượng ngập úng.

– Lưu ý cứ 6 tháng lại tỉa cành cho cây bơ một lần, tạo hình tán cây theo hướng tự trụ (bốn cành bốn hướng) để cây bơ có thể phát triển cân đối và khỏe mạnh hơn.

– Ngoài ra, để cây bơ phát triển tốt nhất, bà con nên trồng nổi cây trên mặt đất từ 15 cho đến 20 cm, không được trồng chìm.

Mua ngay bơ 034 tại FoodMap ngay nào!

Categories
HỎI ĐÁP NGHỀ NÔNG Trồng trọt

Quy Trình Canh Tác Gạo Tâm Việt – Gạo St24

Cùng Foodmap tìm hiểu quy trình canh tác Gạo Tâm Việt – Gạo ST24 nhé!

Vụ mùa: 01 năm / 02 vụ.

Mô hình: Vườn ao ruộng chuồng

– Vườn: Cây tán cao, cây địa phương, cây ăn quả, cây thảo dược (sả)

– Ao: Ao nuôi cá, ao lọc nước

– Ruộng

– Chuồng: Chuồng vịt, gà, heo

GẠO ST24 - GẠO TÂM VIỆT

Quy trình sản xuất:

01. Xây dựng hệ sinh thái

Hệ sinh thái trên trang trại Tâm Việt được quy hoạch – thiết kế hệ thống môi trường trú ẩn với bờ bao, mương nước, các tầng – tán cây bụi, cây dược liệu…đảm bảo cho các loài động, thực, vi sinh vật cùng tồn tại phát triển và cân bằng nhau. Dựng lên những hàng rào sinh học tự nhiên giúp tiêu diệt các côn trùng gây hại cho lúa.

02. Xử lý nguồn nước

Ở khu vực có độ cao lớn nhất, bố trí ao lắng đầu nguồn, nước bơm từ kênh bên ngoài được lắng lại rồi mới xả vào ao thứ 2 (ao nuôi cá, và bèo). Tiếp tục được thả vào đường mương nước.
lọc nước hiệu quả của tự nhiên là lục bình, rau muống và sen. Trên các đường mương – Tiếng thả rau muống tự nhiên – hệ thống rễ của rau muống sẽ hút lọc các loại hóa chất tồn dư trong nước.

03. Xử lý cỏ dại

Trong xuyên suốt quy trình canh tác, nước được sử dụng để diệt ém cỏ dại (cỏ mầm, cỏ cây, và nhổ cỏ bằng tay) trong giai đoạn gieo sạ .

04. Xử lý sâu bệnh

Điều chỉnh nhiệt độ, độ ẩm trong nền ruộng để phòng – khống chế bệnh đạo ôn cho lúa.
Sử dụng nước, vịt, cá để diệt các loại sâu, rầy hại lúa bằng cách tính toán lịch di cư – đẻ trứng trong vòng đời của sâu bệnh.

05. Nuôi đất

Nghỉ đồng, thay vì một năm 03 vụ, giảm còn 02 vụ để đất có thời gian nghỉ ngơi, và phân giải các chất hữu cơ. Trả lại rơm cho đất, bơm nước, vùi lấp tạo ra lượng sinh khối là môi trường và thức ăn cho các loại giun trùn, vi sinh vật giúp phân hủy và trả lại lượng hữu cơ tự nhiên.

Xả rút nước trong đồng ruộng trong thời gian canh tác và thời gian xả đồng, cá sẽ đi ăn một lượng lớn côn trùng, vi sinh vật và thải lại phân với hàm lượng đạm cao bổ sung cho đất trở thành một phần dinh dưỡng cho lúa. Bên cạnh đó, điều tiết nước, thả vịt theo tuổi lúa vịt sẽ ăn ốc bươu, côn trùng và cũng sẽ thải lại một lượng phân, ngoài hàm lượng dinh dưỡng trong phân vịt đây là nguồn thức ăn phù hợp cho các các chủng vi sinh vật cải tạo môi trường đất.

Quan sát các giai đoạn lúa phát triển, nếu thiếu dinh dưỡng, sẽ sử dụng phân cá vi sinh để bổ sung.

GẠO ST24 - GẠO TÂM VIỆT

Chế biến:

– Chế biến tự xay xát , đóng gói gạo thủ công, hạt gạo không đẹp nhưng còn chứa nhiều dinh dưỡng tự nhiên của các vitamin.

– Không đánh bóng, làm mất hết lớp cám của hạt gạo.

– Không dùng chất bảo quản, chống mối mọt.

– Không sử dụng chất tạo hương, tạo vị cho hạt gạo.

GẠO ST24 - GẠO TÂM VIỆT

Đóng gói, bảo quản:

– Đóng gói hút chân không, mở gói sử dụng trong vòng 2 tháng, đậy kín và để nơi thoáng mát.

– Hạn sử dụng: 03 tháng.

GẠO ST24 - GẠO TÂM VIỆT

Gạo ST24 – Gạo Tâm Việt được trồng theo phương pháp truyền thống không hóa chất, nguyên cám giữ trọn vị ngon và chất dinh dưỡng thuần túy tự nhiên.

Hiện nay, gạo ST24 đã có mặt tại Foodmap. Bấm để xem thêm về sản phẩm tại đây hoặc liên hệ hotline 1900 2614 để được Foodmap tư vấn.